Ngày 30/11/2018, Bộ Y Tế đã ban hành Thông tư số 38/2018/TT-BYT hướng dẫn công tác thi đua khên thưởng trong ngành Y tế. Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 21/01/2019.
Theo đó, nội dung, đối tượng, nguyên tắc thi đua, khen thưởng; tổ chức phát động phong trào thi đua; danh hiệu và tiêu chuẩn danh hiệu thi đua; hình thức và tiêu chuẩn khen thưởng; thẩm quyền quyết định, tuyến trình, thủ tục đề nghị công nhận danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng và tổ chức trao tặng; Hội đồng thi đua, khen thưởng và Hội đồng sáng kiến; quỹ thi đua, khen thưởng trong ngành y tế sẽ được thực hiện theo các quy định của Thông tư số 38/2018/TT-BYT.
Một trong những điểm khác biệt quan trong giữa Thông tư này so với Thông tư số 20/2011/TT-BYT trước đây là việc Bộ Y Tế đã bổ thêm hai quy định về việc trao tặng kỷ niệm chương: “Vì sức khỏe nhân dân” và “Vì sự nghiệp dân số”. Kỷ niệm chương“Vì sức khỏe nhân dân” được trao tặng để ghi nhận những đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động phòng chống các bệnh hiểm nghèo như Lao, Phong, HIV/AIDS. Và kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp dân số” được trao để ghi nhận những đóng góp cho sự nhiệp dân số của các cơ quan, tổ chức cá nhân hoạt động trong công tác dân số.
Có thể thấy, Với việc ban hành Thông tư sốm số 38/2018/TT-BYT cho thấy sự đổi mới kịp thời của Bộ Y Tế trong hoạt động thi đua khen thưởng, giúp đánh giá, ghi nhận xứng đáng những thành tích, đóng góp của các cá nhân, tổ chức hoạt động trong ngành y tế.
Ngày 21/01/2019, Bộ Lao đông – Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 04/2019/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa . Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 08/03/2019.
Theo đó, Thông tư số 04/2019/TT-BLĐTBXH quy định một số nội dung nổi bật liên quan đến việc Hướng dẫn thực hiện quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giành cho người lao động, cụ thể:
Liên quan tới thang lương, bảng lương và phụ cấp lương, Quỹ bảo lãnh tín dụng được xây dựng căn cứ trên quy định tại:
1. Điều 93 của Bộ luật Lao động 2012;
2. Nghị định số 49/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ;
3. Thông tư số 17/2015/TT-BLĐTBXH ngày 22 tháng 4 năm 2015 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
Liên quan tới việc quản lý lao động, xác định quỹ tiền lương, tạm ứng quỹ tiền lương, phân phối tiền lương, tiền thưởng.
1. Quỹ bảo lãnh tín dụng thực hiện quản lý lao động, xác định quỹ tiền lương kế hoạch, quỹ tiền lương thực hiện, tạm ứng và phân phối tiền lương, tiền thưởng đối với người lao động theo quy định tại Mục 2; Điều 9, 10, 13 Mục 3 và Mục 4 Thông tư số 26/2016/TT-BLĐTBXH ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
2. Đồng thời, khi xác định mức tiền lương bình quân kế hoạch, mức tiền lương bình quân thực hiện để tính quỹ tiền lương kế hoạch, quỹ tiền lương thực hiện, căn cứ vào Điều 9 và Điều 14 Thông tư số 26/2016/TT-BLĐTBXH thì chỉ tiêu lợi nhuận (lợi nhuận kế hoạch, lợi nhuận thực hiện trong năm và lợi nhuận thực hiện của năm trước liền kề) được tính bằng chỉ tiêu số chênh lệch giữa tổng số thu nhập và tổng số chi phí (sau đây gọi tắt là chênh lệch thu trừ chi) của Quỹ bảo lãnh tín dụng.
Như vậy, việc Thông tư 04/2019/TT-BLĐTBXH được ban hành đã thế hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với doanh nghiệp trong hoạt động quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với Quỹ bảo lãnh tín dụng, xác định rõ ràng cơ chế quản lý tài chính trong doanh nghiệp, qua đó bảo vệ tối đa quyền và lợi ích của người lao động, tăng cường dân chủ, minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp.
Ngày 15/11/2018, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 23/2018/TT-BTNMT quy định về tổ chức xác định, thẩm định và phê duyệt kết quả xác định chi phí đánh giá tiềm năng khoáng sản, chi phí thăm dò khoáng sản phải hoàn trả do Nhà nước đã đầu tư. Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 08/1/2019.
Theo đó, việc xác định chi phí đánh giá tiềm năng khoáng sản, chi phí thăm dò khoáng sản phải hoàn trả do Nhà nước đã đầu tư được thực hiện theo trình từ sau đây:
(1) Thu thập số liệu, tài liệu:
Thu thập các báo cáo, đánh giá tiềm năng khoáng sản; báo cáo thăm dò khoảng sản; các quyết định phê duyệt trữ lượng khoáng sản; kết quả chuyển đổi trữ lượng khoáng sản; giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản;
(2) Khảo sát thực tế
– Kiểm tra tính chính xác thực tế về vị trí diện tích các công trình địa chất đã thi công, các yếu tố liên quan đến điều kiện thi công các công trình địa chất;
– Kiểm tra hiện trạng khoáng sản;
– Kết thúc khảo sát, đơn vị xác định chi phí hoàn trả lập Biên bản khảo sát thực tế.
(3) Đơn vị xác định chi phí hoàn trả lập Báo cáo kết quả xác định chi phí đánh giá tiềm năng khoáng sản, chi phí thăm dò khoáng sản phải hoàn trả cho Nhà nước đã đầu tư;
(4) Họp kỹ thuật để xem xét về cơ sở pháp lý, phương pháp xác định chi phí hoàn trả; khối lượng các hạng mục công trình địa chất, việc áp dụng định mức kinh tế – kỹ thuật, đơn giá và trữ lượng khoáng sản;
(5) Họp Hội đồng thẩm định kết quả xác định chi phí hoàn trả;
(6) Trình cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kết quả xác định chi phí hoàn trả;
(7) Thông báo kết quả xác định chi phí hoàn trả.
Như vậy,có thể thấy quy định này có hiệu lực sẽ hướng dẫn cụ thể cho cơ quan quản lý Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp thực hiện việc xác định, thu, quản lý và sử dụng tiền hoàn trả chi phí đánh giá tiềm năng khoáng sản, chi phí thăm dò khoáng sản của Nhà nước. Đồng thời, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với lĩnh vực thăm dò, đánh giá tiềm năng và quản lý chặt chẽ việc khai thác khoáng sản, hạn chế việc khai thác bừa bãi, dẫn đến cạn kiệt nguồn khoáng sản của quốc gia.
Ngày 10/12/2018, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 120/218/TT-BTC quy định về mức lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư, thanh toán phần vốn đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án và quyết toán công trình dự án hoàn thành theo hình thức đối tác công tư thuộc Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017 – 2020. Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 23/01/2019.
Theo đó, việc quản lý thanh toán phần vốn đầu tư của Nhà đầu tư nước tham gia thực hiện dự án PPP được quy định như sau:
– Đối với phần vốn đầu tư công bố trí cho các hạng mục công việc do cơ quan nhà nước thực hiện, việc quản lý, thanh toán theo quy định về quản lý, thanh toán vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước.
– Đối với phần vốn đầu tư của Nhà nước hỗ trợ một phần chi phí xây dựng công trình, Nhà nước sẽ thực hiện thanh toán phần giá trị khối lượng hoàn thành sau khi nhà đầu tư đã giải ngân hết 50% số vốn chủ sở hữu và đủ điều kiện giải ngân phần vốn vay đảm bảo các quy tắc sau:
+ Việc thanh toán song song theo tỷ lệ giữa phần vốn đầu tư của Nhà nước, vốn vay thương mại và vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư phải được quy định cụ thể tại hợp đồng dự án giữa Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư.
+ Việc thanh toán phù hợp với khối lượng, giá trị xây dựng hoàn thành đã được nghiệm thu đồng thời đảm bảo nằm trong phạm vi kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn và hằng năm nguồn vốn ngân sách nhà nước được cấp có thẩm quyền phê duyệt để thực hiện các dự án PPP.
– Việc phân bổ và kiểm tra phân bổ vốn đầu tư công bố trí hỗ trợ phần chi phí xây dựng công trình thực hiện theo quy định về quản lý, thanh toán vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Như vậy, thông qua các quy định khá rõ ràng về việc thanh toán và quản lý phần vốn đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án và quyết toán công trình dự án hoàn thành theo hình thức đối tác công tư của Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017 – 2020 sẽ góp phần giúp việc quản lý của cơ quan nhà nước được dễ dàng, minh bạch và nhà đầu tư cũng có cơ sở về nghĩa vụ của mình phải thực hiện.
Ngày 29/11/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 161/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng công chức, viên chức, nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức và thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập. Nghị định này có hiệu lực thị hành kể từ ngày 15/01/2019.
Theo đó, Nghị định số 161/2018/NĐ-CP đã có những sửa đổi bổ sung đáng chú ý cụ thể như sau:
1. Không phân biệt văn bằng khi tuyển dụng công chức, viên chức
Các cơ quan sử dụng công chức, viên chức được xác định điều kiện tuyển dụng các công chức, viên chức theo yêu cầu của vị trí dự tuyển, tuy nhiên không được phân biệt loại hình đào tạo, văn bằng, chứng chỉ, trường công lập, trường ngoài công lập.
Qua đó, sẽ không còn sự phân biệt giữa bằng chính quy và bằng tại chức, văn bằng 2, bằng đào tạo từ xa… khi tuyển dụng công chức, viên chức.
2. Điểm ưu tiên trong thi tuyển công chức, viên chức
Theo Nghị định số 161/2018/NĐ-CP, một số đối tượng thi tuyển công chức, viên chức không còn được hưởng nhiều điểm ưu tiên như trước đây.
Cụ thể, nếu như trước đây, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, Anh hùng Lao động… được cộng 30 điểm vào điểm thi tuyển hoặc xét tuyển thì nay, chỉ còn được cộng 7,5 điểm vào kết quả thi vòng 2. Tương tự, người dân tộc thiểu số, sĩ quan quân đội, công an; quân nhân chuyên nghiệp, con thương binh, liệt sĩ cũng chỉ còn được cộng 5 điểm vào kết quả thi vòng 2, thay vì 20 điểm vào tổng điểm.
3. Được phép ký 02 lần hợp đồng có thời hạn với viên chức
Khác với Nghị định số 29/2012/NĐ-CP, Nghị định số 161/2018/NĐ-CP quy định khá chi tiết về hợp đồng làm việc của viên chức.
Theo đó, viên chức được tuyển dụng vào đơn vị sự nghiệp công lập phải ký hợp đồng làm việc lần đầu từ đủ 12 tháng – 36 tháng. Sau khi hết thời hạn này, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập xem xét quyết định ký tiếp hợp đồng xác định thời hạn hoặc không xác định thời hạn hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc. Nếu ký tiếp hợp đồng xác định thời hạn thì sau khi hết hạn hợp đồng, người đứng đầu đơn vị phải xem xét ký tiếp hợp đồng không xác định thời hạn hoặc chấm dứt hợp đồng.
Như vậy, có thể thấy, Nghị định số 161/2018/NĐ-CP đã có những điều chỉnh kịp thời và thiết thực, phù hợp với chủ trương công bằng, công khai, minh bạch và hiệu quả của Nhà nước trong hoạt động thi tuyển, xét tuyển công chức, viên chức, qua đó góp phần không nhỏ trong việc xây dựng đội ngũ công chức, viên chức thực sự có chất lượng, đặc biệt là trong giai đoạn phát triển mới với nhiều thách thức của đất nước như hiện nay.
Ngày 30/11/2018, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 21/2018/TT-BLĐTBXH quy định tiêu chí xác định chương trình chất lượng cao trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/01/2019.
Theo đó, chương trình đào tạo chất lượng cao phải đáp ứng đầy đủ các quy định đối với một chương trình đào tạo thông thường được xây dựng theo quy định tại Thông tư số 03/2017/TT-BLĐTBXH ngày 1/3/2017 của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và đáp ứng các tiêu chí sau đây:
1. Có chuẩn đầu ra cao hơn chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo thông thường về kiến thức chuyên môn, kỹ năng và phẩm chất nghề nghiệp;
2. Năng lực ngoại ngữ của người học khi tốt nghiệp ra trường phải đạt bậc 4/6 đối với nhóm ngành ngôn ngữ và văn hóa nước ngoài theo Khung năng lực ngoại ngữ của Việt Nam hoặc tương đương; đạt bậc 2/6 ở trình độ trung cấp, bậc 3/6 ở trình độ cao đẳng đối với các nhóm ngành, nghề khác;
3. Năng lực về công nghệ thông tin của người học những ngành, nghề không thuộc nhóm ngành, nghề công nghệ thông tin và máy tính phải đạt tối thiểu chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông;
4. Đối với chương trình chuyển giao, chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, chương trình đào tạo theo đặt hàng của doanh nghiệp thỏa mãn các tiêu chí quy định tại Thông tư này thì được công nhận là chương trình đào tạo chất lượng cao.
Bên cạnh đó, Thông tư này cũng quy định nhà giáo giảng dạy chương trình chất lượng cao phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm đối với từng ngành, nghề đào tạo theo các quy định hiện hành. Nhà giáo dạy những nội dung kiến thức cơ sở và nội dung chuyên môn phải có bằng tốt nghiệp đại học trở lên đối với đào tạo trung cấp, thạc sỹ trở lên đối với đào tạo cao đẳng và đúng với chuyên môn ngành, nghề tham gia giảng dạy. Nhà giáo hướng dẫn, giảng dạy các nội dung thực hành, thực tập phải có kinh nghiệm thực tế làm việc trong lĩnh vực của ngành, nghề đào tạo từ 3 năm trở lên. Nhà giáo giảng dạy các nội dung bằng ngoại ngữ trong chương trình chất lượng cao phải có trình độ ngoại ngữ tối thiểu bậc 4/6 theo Khung năng lực ngoại ngữ của Việt Nam hoặc tương đương.
Như vậy, Thông tư số 21/2018/TT-BLĐTBXH đã có những hướng dẫn chi tiết và cụ thể về tiêu chí xác định chương trình chất lượng cao trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng, qua đó tạo cơ sở cho các hoạt động giảng dạy cũng như học tập được diễn ra phù hợp, hiệu quả và có chất lượng.
Ngày 28/12/2018, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 45/2018/TT-NHNN hướng dẫn các tổ chức tín dụng cho vay có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 12/02/2019.
Theo đó, Thông tư số 45/2018/TT-NHNN có nhưng điểm mới đáng chú ý như sau:
1. Về phối hợp trong cho vay có bảo lãnh
Trường hợp Quỹ bảo lãnh tín dụng nhận tài sản bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh, bên cho vay, Quỹ bảo lãnh tín dụng, bên có tài sản bảo đảm và các bên liên quan (nếu có) thỏa thuận bằng văn bản để đảm bảo bên cho vay có quyền tiếp nhận và xử lý tài sản bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh trong trường hợp Quỹ bảo lãnh tín dụng không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định.
Trước khi thực hiện cho vay có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng, bên cho vay và Quỹ bảo lãnh tín dụng: a- Căn cứ các quy định nội bộ của bên cho vay và phương thức tổ chức điều hành hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng quy định tại Điều 14 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP, thực hiện ký thỏa thuận khung hoặc thỏa thuận từng lần về việc phối hợp cho vay có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng để thống nhất các nội dung trong quá trình thực hiện bảo lãnh, cho vay và là cơ sở để thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên khi phát sinh; b- Trường hợp các bên có nhu cầu sửa đổi, bổ sung thỏa thuận phối hợp đã ký kết thì việc sửa đổi, bổ sung phải được thực hiện bằng văn bản và là một bộ phận không tách rời của văn bản thỏa thuận phối hợp.
2. Về nguyên tắc cho vay
Bên cho vay xem xét, thẩm định, quyết định cho vay bằng đồng Việt Nam đối với các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng được Quỹ bảo lãnh tín dụng bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ gốc, trả lãi, trả nợ gốc và nợ lãi khoản vay theo quy định và tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình.
Việc phân loại nợ, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro của bên cho vay đối với khoản vay của khách hàng có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện theo quy định.
Bên cho vay và khách hàng thỏa thuận mức lãi suất cho vay đối với các khoản vay ngắn, trung, dài hạn của khách hàng có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng, đảm bảo lãi suất cho vay không cao hơn lãi suất cho vay cùng kỳ hạn, cùng ngành, lĩnh vực của bên cho vay, phù hợp với quy định.
Có thể thấy, các quy định mới của Ngân hàng Nhà nước trong hoạt động bảo lãnh cho vay tại Thông tư số 45/2018/TT-NHNN được kỳ vọng sẽ thu hút và tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động tín dụng trong những năm tới.
Ngày 07/01/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 32/QĐ-TTg phê duyệt đề án thành lập Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam (“SGDCK Việt Nam”). Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ban hành.
Theo đó, một số nội dung quan trọng, nổi bật liên quan đến việc tổ chức và hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam đã được quy định trong Quyết định số 32/QĐ-TTg, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về mô hình hoạt động: SGDCK Việt Nam hoạt động theo mô hình Công ty TNHH MTV 100% vốn nhà nước do Bộ Tài chính là cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, có trụ sở chính đặt tại Hà Nội. SGDCK Hà Nội và SGDCK Tp. Hồ Chí Minh là các công ty con do SGDCK Việt Nam đầu tư 100% vốn, hoạt động độc lập, có tư cách pháp nhân.
Thứ hai, về chức năng nhiệm vụ:
– Xây dựng chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển, kế hoạch sản xuất kinh doanh 05 năm và kế hoạch sản xuất kinh doanh hằng năm để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt;
– Ban hành các quy chế nghiệp vụ liên quan đến tổ chức và hoạt động thị trường giao dịch chứng khoán, như: niêm yết chứng khoán, giao dịch chứng khoán, công bố thông tin, thành viên giao dịch…sau khi được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) chấp thuận;
– Thực hiện hoạt động giám sát chung và giám sát nội bộ;
– Định hướng phát triển hệ thống công nghệ thông tin, thành tựu mới để chỉ đạo tổ chức thực hiện thống nhất về việc quản lý và tổ chức trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán;
– Hỗ trợ phát triển thị trường trong lĩnh vực chứng khoán theo quy định của pháp luật;
– Làm trung gian hoà giải theo yêu cầu của thành viên giao dịch khi phát sinh tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán;
– Tham gia hoạt động hợp tác quốc tế về chứng khoán và thị trường chứng khoán;
– Thực hiện quản lý các công ty con theo quy định pháp luật và Điều lệ hoạt động;
– Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật và quy định của cấp có thẩm quyền.
Nhìn chung, việc thành lập SGDCK Việt Nam nhằm mục đích thống nhất thị trường giao dịch chứng khoán, đảm bảo thị trường hoạt động hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đồng thời, tăng cường công tác quản lý, giám sát, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng tham gia thị trường, góp phần nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam, nâng cao sức cạnh tranh, từng bước tiếp cận với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Ngày 30/11/2018, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 29/2018/TT-NHNN hướng dẫn việc xác nhận, quản lý tiền ký quỹ của doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 18/01/2019.
Theo đó, Thông tư số 29/2018/TT-NHNN quy định các nội dung chính như sau:
1. Thủ tục hồ sơ ký quỹ của doanh nghiệp
Khi có nhu cầu ký quỹ tại ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài, doanh nghiệp và ngân hàng nhận ký quỹ thực hiện giao kết hợp đồng ký quỹ.
Hợp đồng ký quỹ bao gồm các nội dung chính sau: Tên, địa chỉ, người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp; tên, địa chỉ, người đại diện hợp pháp của ngân hàng (hoặc chi nhánh ngân hàng) nhận ký quỹ; số tiền ký quỹ; mục đích ký quỹ; lãi suất tiền gửi ký quỹ; hình thức trả lãi tiền ký quỹ; sử dụng tiền ký quỹ; rút tiền ký quỹ; tất toán tài khoản ký quỹ; trách nhiệm của các bên liên quan và các nội dung khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ, thủ tục mở tài khoản ký quỹ theo hướng dẫn của ngân hàng nhận ký quỹ và nộp số tiền ký quỹ vào tài khoản ký quỹ theo quy định tại khoản 2 Điều 50 Nghị định số 40/2018/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp (tương đương 5% vốn điều lệ nhưng không thấp hơn 10 tỷ đồng tại một ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam).
Sau khi nhận đủ số tiền ký quỹ, ngân hàng nhận ký quỹ hạch toán tiền ký quỹ vào tài khoản tiền ký quỹ bằng đồng Việt Nam, cấp giấy Xác nhận ký quỹ cho doanh nghiệp.
Trường hợp doanh nghiệp thay đổi vốn điều lệ và có nhu cầu điều chỉnh số tiền ký quỹ, ngân hàng nhận ký quỹ và doanh nghiệp thực hiện việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng ký quỹ hoặc ký kết hợp đồng ký quỹ mới và thực hiện ký quỹ theo quy định.
Lãi suất tiền ký quỹ do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng ký quỹ giữa doanh nghiệp và ngân hàng nhận ký quỹ đảm bảo phù hợp với quy định về lãi suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong từng thời kỳ.
2. Quy định về xử lý khoản tiền đã ký quỹ
Khi nhận được văn bản của Bộ Công Thương yêu cầu trích tiền ký quỹ của doanh nghiệp để xử lý các trường hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Nghị định số 40/2018/NĐ-CP, ngân hàng nhận ký quỹ thực hiện trích tiền ký quỹ cho người tham gia bán hàng đa cấp hoặc theo quyết định xử phạt của cơ quan có thẩm quyền. Cụ thể:
– Doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định nhưng không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến hoạt động bán hàng đa cấp đối với người tham gia bán hàng đa cấp và có quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền về việc xử lý các tranh chấp giữa doanh nghiệp bán hàng đa cấp với người tham gia bán hàng đa cấp liên quan đến các nghĩa vụ đó;
– Doanh nghiệp chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp nhưng không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm trong hoạt động bán hàng đa cấp đã có hiệu lực của cơ quan có thẩm quyền.
Có thể thấy, Thông tư số 29/2018/TT-NHNN được kỳ vọng sẽ nâng cao hiệu quả quản lý đối với hoạt động bán hàng đa cấp, hạn chế “biến tướng” của hoạt động bán hàng đa cấp, góp phần bảo vệ quyền, lợi cho người tiêu dùng.
Ngày 05/01/2019, Thủ tướng ChÍnh phủ đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-Ttg về việc tăng cường công tác chỉ đạo, đẩy mạnh công tác cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh nghiệp có vốn nhà nước. Chỉ thị này có hiệu lực kể từ ngày ban hành.
Theo đó, Thủ tướng đã chỉ rõ những hạn chế còn tồn tại, hạn chế trong công tác cơ cấu lại, sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn tại các danh nghiệp nhà nước, đồng thời đưa ra những phân tích về nguyên nhân khách quan, chủ quan dẫn tới những tồn tại, hạn chế này. Trên cơ sở đó, Thủ tướng đã giao các Bộ trưởng, Trưởng ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các tập đoàn, tổng công ty, DNNN đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, tập trung chỉ đạo và triển khai tốt các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
– Khẩn trương hoàn thành hệ thống cơ chế, chính sách, văn bản pháp luật phục vụ công tác tái cơ cấu, thoái vốn tại các DNNN;
– Các Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, DNNN trước ngày 15 tháng 01 năm 2019 hoàn thành việc phê duyệt hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cơ cấu lại các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực quản lý;
– Rà soát lại quỹ đất đang được các DNNN quản lý để thực hiện việc xác định giá trị doanh nghiệp đúng quy định của pháp luật;
– Tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm toán, tránh việc thất thoát tài sản, vốn nhà nước trong quá trình thoái vốn, cơ cấu lại tại DNNN;
– Kiên quyết xử lí các DNNN, các dự án đầu tư hoạt động thua lỗ, kém hiệu quả;
– Công bố công khai thông tin về cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước làm.
Có thể thấy, thông qua việc ban hành Chỉ thị số 01/CT-Ttg, Thủ tướng Chính phủ đang thể hiện rõ quyết tâm trong việc tiếp tục cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước qua đó góp phần hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2019.