Ngày 20/06/2018, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 08/2018/TT-BTP về hướng dẫn đăng ký, cung cấp thông tin, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 04/08/2018.
Theo đó, Thông tư số 08/2018/TT-BTP quy định một số nội dung mới nổi bật như sau:
– Hợp đồng thuê tài sản có thời hạn từ một năm trở lên hoặc hợp đồng có thời hạn thuê tài sản dưới một năm, nhưng các bên giao kết hợp đồng thỏa thuận về việc gia hạn và tổng thời hạn thuê (bao gồm cả thời hạn gia hạn) từ một năm trở lên;
– Hợp đồng cho thuê tài chính theo quy định của pháp luật về cho thuê tài chính;
– Hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ, bao gồm quyền đòi nợ hiện có hoặc quyền đòi nợ hình thành trong tương lai;
– Thay đổi, sửa chữa sai sót, xóa đăng ký hợp đồng đã đăng ký tại các hợp đồng trên.
Các trường hợp được loại trừ bao gồm hợp đồng mua tàu bay dân dụng, hợp đồng thuê tài chính đối với tàu bay, hợp đồng thuê mua tàu biển, hợp đồng cho thuê tài chính đối với tàu biển, hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.
– Thế chấp động sản, trừ tàu bay, tàu biển bao gồm cả thế chấp động sản hình thành trong tương lai;
– Bảo lưu quyền sở hữu trong trường hợp mua bán tài sản là động sản, trừ tàu bay, tàu biển có bảo lưu quyền sở hữu;
– Thay đổi, sửa chữa sai sót, xóa đăng ký biện pháp bảo đảm đối với 2 trường hợp nêu trên.
– Văn bản thông báo việc xử lý tài sản bảo đảm đối với biện pháp bảo đảm đã đăng ký.
Như vậy, Thông tư số 08/2018/TT-BTP đã quy định cụ thể các loại hợp đồng được đăng ký giao dịch bảo đảm theo yêu cầu, từ đó tạo cơ sở để việc áp dụng và thực thi pháp luật về giao dịch bảo đảm được thống nhất và minh bạch.
Ngày 06/04/2016, Quốc hội đã ban hành Luật số 104/2016/QH13 về tiếp cận thông tin. Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2018.
Theo đó, Luật tiếp cận thông tin số 104/2016/QH13 những điểm mới đáng chú ý như sau:
Luật này quy định công dân Việt Nam có quyền tiếp cận thông tin của cơ quan nhà nước, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có quyền yêu cầu cung cấp thông tin liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ. Tuy nhiên không phải người dân có quyền tiếp cận mọi thông tin mà Luật quy định rõ những thông tin mà người dân không được tiếp cận hoặc được tiếp cận nhưng có điều kiện trong các trường hợp sau:
Bên cạnh đó, Luật tiếp cận thông tin cũng quy định trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, người đứng đầu cơ quan nhà nước quyết định việc cung cấp thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong trường hợp cần thiết vì lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng theo quy định của pháp luật có liên quan mà không cần có sự đồng ý của các chủ thể sở hữu thông tin liên quan đến bí mật.
Ngoài ra, người dân có quyền tiếp cận thông tin dưới hai hình thức:
Cả hai trường hợp nêu trên người yêu cầu cung cấp thông tin đều phải trả chi phí thực tế để in, sao, chụp, gửi thông tin (nếu có).
Như vậy, có thể thấy, việc ban hành Luật tiếp cận thông tin số 104/2016/QH13 là cần thiết và phù hợp với xu thế mở rộng các quyền tự do dân chủ của nhân dân và các cam kết thực hiện quyền con người mà Việt Nam đã tham gia hoặc ký kết.
Nghiên cứu về tình hình hợp tác kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc hiện nay ở một số lĩnh vực chính cho thấy Hàn Quốc là một trong những đối tác thương mại chiến lược quan trọng nhất của Việt Nam. Suốt 22 năm qua, mối quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia đã phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực. Những thành tựu này đã được nhắc lại và tái khẳng định trong quá trình ký kết Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA) ngày 5 tháng 5 năm 2015 tại Hà Nội. Sự kiện đã đánh dấu cột mốc mới trong quan hệ kinh tế song phương giữa hai quốc gia. Bên cạnh đó, quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc cũng chịu tác động bởi những tương tác ở phạm vi quốc tế, khu vực và quốc gia. Các yếu tố thuận lợi và bất lợi có thể được tóm tắt như sau:
Điều kiện thuận lợi
Xu hướng chung của hợp tác khu vực và quốc tế đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Những thành tựu trong quá trình hợp tác giữa hai nước những năm gần đây là kết quả của chính sách đối ngoại tích cực của Việt Nam “kết bạn với tất cả các nước trên thế giới” và chính sách “nhìn về phía nam” của Hàn Quốc cũng như môi trường kinh doanh hòa bình, hợp tác và hội nhập kinh tế.
Việt Nam và Hàn Quốc là hai quốc gia Đông Á với truyền thống lâu đời, giàu lòng yêu nước và có nguồn lao động dồi dào, chăm chỉ, giàu tri thức. Cả hai quốc gia đều bị tàn phá bởi chiến tranh và sau đó đều tiến hành công cuộc công nghiệp hóa trên nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc có một lịch sử lâu dài, mặc dù trong quá khứ quân đội Hàn Quốc đã từng tham gia vào chiến tranh Việt Nam, nhưng ngày nay, cả hai quốc gia đều mong muốn “đặt sang một bên quá khứ và nhìn về tương lai”. Hai nước chia sẻ quyết tâm tiếp tục hợp tác trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, vì độc lập và chủ quyền quốc gia, lợi ích lâu dài của cả hai dân tộc, phấn đấu cho sự ổn định, hợp tác và thịnh vượng trong khu vực và thế giới.
Sự hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc dựa trên các nhu cầu trước mắt của cả hai quốc gia là phát triển kinh tế đất nước. Điều này được phản ánh trong tuyên bố của Tổng thống Roh Moo-huyn trong chuyến thăm Việt Nam: “Việt Nam có nguồn lực và lao động dồi dào, trong khi Hàn Quốc có công nghệ tiên tiến và vốn đầu tư.” Việt Nam cũng chia sẻ quan điểm này và mong muốn phát triển quan hệ trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
Trong những năm gần đây, do thường xuyên có những trao đổi trong lĩnh vực giáo dục, hai nước đã tạo ra một số lượng lớn lao động biết ngôn ngữ và hiểu văn hóa của nước đối tác. Họ sẽ là lực lượng chính để thúc đẩy sự hợp tác giữa hai nước.
Hiện nay, với chính sách mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế khu vực và quốc tế, Việt Nam tự hào về môi trường kinh doanh và đầu tư trên đà thay đổi nhanh chóng. Việt Nam đã thiết lập quan hệ với nhiều tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới thông qua việc ký kết Hiệp định thương mại tự do với các nước khác, cùng với quá trình sửa đổi Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, sự ra đời của Cộng đồng ASEAN sẽ tạo cơ hội mới cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp của cả Việt Nam và Hàn Quốc.
Việc ký kết VKFTA vào năm 2015 sau chín vòng đàm phán liên tục kể từ năm 2012 là một điểm nhấn trong quan hệ song phương. Tương tự như cam kết với WTO và các FTA khác mà Việt Nam đã là thành viên hoặc trong quá trình đàm phán, việc ký kết VKFTA sẽ giúp cải thiện hơn nữa môi trường kinh doanh, phân bổ và sử dụng các nguồn lực xã hội một cách hiệu quả hơn để tăng tốc quá trình tái cấu trúc nền kinh tế theo dòng chảy giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Theo Hiệp định này, xuất khẩu của Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thị trường hơn khi Hàn Quốc cam kết mở rộng thị trường. Hàn Quốc cam kết hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực xây dựng và thực thi chính sách, nâng cao năng lực cạnh tranh trong các lĩnh vực là thế mạnh của Hàn Quốc và là nhu cầu của Việt Nam để xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, thủy sản và lâm sản; đầu tư vào ngành công nghiệp điện tử, công nghiệp lọc dầu, công nghiệp hỗ trợ…Trong kịch bản lạc quan, VKFTA được kỳ vọng sẽ tạo ra lợi ích xã hội tích cực bằng cách tạo thêm việc làm cho lao động Việt Nam, cải thiện thu nhập và xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn.
Khó khăn và thách thức
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi nêu trên, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Cụ thể là:
Quan hệ kinh tế song phương không thể tách khỏi các quan hệ chính trị. Hai nước cần tái khẳng định chính sách hỗ trợ nhau trong các vấn đề quốc tế có liên quan trong bối cảnh khu vực và toàn cầu thay đổi nhanh chóng và không thể đoán trước. Sự trỗi dậy của Trung Quốc và những thay đổi trong chính sách, ví dụ như sự gia tăng quân sự tại Biển Đông đã đặt ra những thách thức nghiêm trọng cho một số nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, về chủ quyền đối với quần đảo và các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) trong vùng biển này. Việt Nam đánh giá cao quan điểm của Hàn Quốc, với tư cách là một đối tác chiến lược của Việt Nam, về việc giải quyết mọi tranh chấp một cách hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Bên cạnh đó, Hàn Quốc cũng cần Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ nhằm mang lại sự thống nhất và hòa bình trên bán đảo Triều Tiên.
Việt Nam và Hàn Quốc có chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và quy định về quyền sở hữu vốn khác nhau. Một khi FTA chính thức có hiệu lực, đòi hỏi phải có sự nỗ lực lớn hơn và nhiều hơn nữa từ Chính phủ và các bộ, ngành, các doanh nghiệp của Việt Nam. Nếu không kịp thời cải cách hệ thống hành chính hiện tại, pháp luật Việt Nam sẽ không thể tuân thủ các cam kết liên quan đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch và cung cấp các dịch vụ công. Môi trường pháp lý minh bạch hơn và ít phức tạp hơn sẽ khuyến khích đầu tư lớn hơn từ Hàn Quốc tại Việt Nam, nhưng lại đòi hỏi công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến và khả năng tiếp cận thị trường thứ ba. Hơn nữa, đối mặt với cạnh tranh khốc liệt trong xu hướng tự do hóa thương mại, các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguy cơ đánh mất thị trường hoặc phá sản trừ khi họ đổi mới nhanh chóng và cập nhật hệ thống quản lý. Ngoài ra, Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn trong đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực để phục vụ nhu cầu phát triển. So với nhiều đối tác trong khu vực của Hàn Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn hiểu biết tương đối hạn chế về thị trường quốc tế và thiếu kinh nghiệm đáp ứng các xu hướng hợp tác quốc tế hiện tại.
Kết luận
Sự phát triển nhanh chóng quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong những năm gần đây cho thấy cả hai quốc gia đã xây dựng thành công lợi thế cạnh tranh. Trong 20 năm qua, mối quan hệ giữa hai nước đã có những bước tiến dài và trở thành một hình mẫu quốc tế, mà ở đó hai nước quyết tâm bỏ qua các vấn đề trong quá khứ để tìm kiếm tương lai, và kết quả đã đạt được những thành tựu đáng kể. Từ những bậc thang rất thấp, mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã chuyển lên những vị trí cao hơn với tốc độ gần như tối đa. Với ý chí chính trị của hai Chính phủ và nguyện vọng của hai dân tộc, chúng ta có tất cả các lý do để tin rằng mối quan hệ thân thiện giữa hai nước sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ và sâu sắc trong thời gian tới.
Nguồn: cefia.aks.ac.kr
“Thẻ vàng” của EU tác động lớn tới ngành thủy sản
Bà Cao Thị Kim Lan, Giám đốc Công ty cổ phần Thủy sản Bình Ðịnh (Bidifisco) cho biết, đơn vị đã thấm thía thiệt hại khi Việt Nam bị EU phạt “thẻ vàng”. Gần 6 tháng bị cảnh báo, ngành thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào Liên minh châu Âu (EU) rất khó khăn.
Công ty hàng năm xuất khẩu khoảng 60 triệu USD (75% là sản lượng cá ngừ), trong đó 70% xuất khẩu sang EU. Việc Việt Nam bị rút thẻ vàng khiến doanh nghiệp thiệt hại nặng. Cho đến nay, công ty đã cam kết nói không với mua bán, khai thác thủy sản bất hợp pháp, bà Lan cho hay.
Theo bà Lan, doanh nghiệp rất khó lấy nhật ký khai thác tàu của ngư dân dẫn đến thời gian xác nhận trễ, khó làm hồ sơ xuất khẩu. Vì vậy, cơ quan nhà nước cần quy định ngư dân phải trình nhật ký khai thác cho cảng cá, bà Lan đề xuất.
Ông Nguyễn Hoài Nam – Phó Tổng thư ký Hiệp hội VASEP cho rằng, việc này ảnh hưởng không nhỏ đến xuất khẩu. Chương trình giám sát thủy sản xuất khẩu của Mỹ áp dụng cho 13 loài (bào ngư, cá tuyết Đại Tây Dương, ghẹ xanh Đại tây Dương, cá hồng, hải sâm, các loài cá nhám, cá ngừ mắt to, cá ngừ vằn, cá ngừ vây vàng và vây xanh…). Đặc biệt, năm 2019, chương trình này sẽ áp dụng cho tôm. Từ đây, con tôm Việt sẽ chịu nhiều thách thức, rủi ro lớn, ông Nam nhận định.
Nhiều doanh nghiệp khai thác chế biển thủy sản cũng đồng quan điểm trên và ghi nhận những nỗ lực của các cấp, các hiệp hội trong việc thu hồi “thẻ vàng”. Ngành thủy sản Việt Nam đang kỳ vọng “thẻ vàng” sớm được gỡ theo đúng kỳ hạn hoặc thu hồi trong thời gian ngắn.
Nỗ lực thu hồi “thẻ vàng”
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) Nguyễn Xuân Cường, thời gian qua, Việt Nam đã tập trung triển khai một cách đồng bộ và quyết liệt các hành động theo 9 khuyến nghị của Ủy ban châu Âu, từng bước chủ động trong việc xây dựng nghề cá theo hướng phát triển bền vững, một nghề cá có trách nhiệm và tuân thủ các quy định quốc tế.
Chính phủ đã đồng ý thành lập tổ công tác liên ngành, trong đó giao NN&PTNT làm Tổ trưởng để chỉ đạo, đôn đốc các địa phương, các bên có liên quan thực hiện kế hoạch hành động quốc gia chống khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU), Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh.
Trên thực tế, trong thực hiện các khuyến nghị của EC, gần 6 tháng qua, ngoài từng bước hoàn thiện khung pháp lý hướng tới quản lý nghề khai thác hải sản bền vững, điểm nổi bật có thể kể đến là cơ quan chức năng đã tăng cường việc giám sát tàu cá, tổ chức tuần tra, kiểm soát trên biển từng bước ngăn chặn, giảm thiểu và tiến tới loại bỏ khai thác IUU tại vùng biển nước ngoài.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn cho rằng, Việt Nam đang cố gắng nếu không gỡ bỏ được “thẻ vàng” trong 6 tháng thì cũng chỉ thêm một thời gian ngắn. Với những tiến bộ từ phía Việt Nam, thời gian tới, dù chưa gỡ bỏ được “thẻ vàng” cũng không để ảnh hưởng tới quan hệ thương mại Việt Nam – EU.
Thứ trưởng Hà Công Tuấn cũng cho biết, tháng 5 này có một đoàn cấp cao của EU đến Việt Nam để đánh giá thực địa. Vì vậy, các cấp cần phải thực hiện các giải pháp thực thi những giải pháp đưa ra và thực hiện đầy đủ các khuyến cáo của EC. Đặc biệt, phải thực hiện tốt việc truy xuất nguồn gốc và nói không với đánh bắt bất hợp pháp.
Theo thông tin từ VTV, hiện nay, toàn bộ hải sản mà tàu của ông Vũ Điều Hiển ở xã Lập Lễ, huyện Thủy Nguyên, TP Hải Phòng khai thác được đều tiêu thụ tại thị trường trong nước. Nhưng theo nhận định của ông, nếu thủy sản Việt Nam không xuất khẩu được sang châu Âu, tất cả ngư dân đều bị ảnh hưởng. Bởi khi đó hàng xuất khẩu sẽ quay lại thị trường nội địa và kéo theo giá hải sản giảm mạnh. Chính vì vậy, mọi ngư dân đều có trách nhiệm để khắc phục những hạn chế của việc khai thác hải sản theo khuyến cáo.
Tại tỉnh Thanh Hóa, 3 văn phòng đại diện thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nghề cá được lập ra tại cảng cá Hòa Lộc, Lạch Hới và Lạch Bạng. Các văn phòng đại diện này sẽ thực hiện việc kiểm tra, quản lý các tàu khi rời cảng và khi trở về.
Sau mỗi chuyến biển, nhiều chủ tàu khi cập cảng cá Thọ Quang đã ý thức hơn trong việc ghi chép và cung cấp nhật ký khai thác cho các lực lượng chức năng.
Nguồn: VOV
Tại Hội nghị công bố Nghị định số 51/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 158/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về kinh doanh hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa do Bộ Công Thương tổ chức vào ngày 9 tháng 5 tại Hà Nội, ông Nguyễn Lộc An, Phó vụ trưởng Vụ thị trường trong nước cho biết, mô hình Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam đã được thực hiện trong nhiều năm.
Tuy nhiên, đến nay, chỉ có rất ít Sở giao dịch hàng hóa được thành lập trong nước. Hàng hóa giao dịch tại các Sở giao dịch vẫn chưa đa dạng và chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp, điển hình là cà phê và các sản phẩm như thép, tuy nhiên khối lượng không đáng kể. Ngoài ra, giao dịch hàng hóa qua Sở giao dịch vẫn còn yếu và chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư, dẫn đến tính thanh khoản thấp.
Về khung pháp lý, ông An cho biết, trước đây, Việt Nam không có quy định về giao dịch hàng hóa thông qua Sở giao dịch hàng hóa nước ngoài; phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài thành lập Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam; mua cổ phần và góp vốn; và các quy định về danh mục hàng hóa được phép giao dịch qua Sở giao dịch hàng hóa, điều này đã khiến các doanh nghiệp tốn rất nhiều thời gian cho việc xin giấy phép.
Để phát triển mô hình Sở giao dịch hàng hóa, ngày 09/04, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 51/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 158/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về kinh doanh hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa.
Về các nội dung mới trong Nghị định 51, đại diện Vụ Pháp chế, Bộ Công thương cho rằng, Nghị định 51 đã mở rộng hình thức giao dịch. Ngoài đơn đặt hàng bằng văn bản, các hình thức khác như telex, fax, dữ liệu và các hình thức khác theo quy định có thể được chấp nhận, cho phép các Sở giao dịch hàng hóa kết nối với nhau không chỉ ở trong nước mà còn kết nối với Sở giao dịch nước ngoài. Ngoài ra, Nghị định 51 cũng mở rộng Danh mục các mặt hàng được giao dịch trong Sở giao dịch hàng hóa.
Nghị định 51 đã bổ sung một nội dung quan trọng liên quan đến quy định về nhà đầu tư nước ngoài được phép góp vốn thành lập Sở giao dịch hàng hóa tại Việt Nam; mua cổ phần và góp vốn vào Sở giao dịch hàng hóa tại Việt Nam với tỷ lệ không quá 49% vốn điều lệ.
Ông An đánh giá rằng Nghị định 51 đã loại bỏ những thiếu sót trong hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa những năm vừa qua và tạo ra một khung pháp lý thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp và nông dân.
Ông Nguyễn Viết Vinh, Tổng thư ký Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam cho biết, “theo Nghị định 51, Việt Nam kết nối các Sở giao dịch trong nước với nhau (nếu có) và hướng tới kết nối với Sở giao dịch nước ngoài. Quy định này tạo ra điều kiện thuận lợi, bởi thông thường doanh nghiệp cần nắm bắt thông tin về khối lượng hàng hóa và giá xuất khẩu. Qua đó, việc đánh giá trên thị trường sẽ có hiệu quả hơn ”.
“Mặc dù cơ chế đã được đưa ra trong Nghị định 51, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hoạt động hiệu quả của các Sở giao dịch hàng hóa. Ví dụ, các vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng, công bố thông tin và năng lực phải được đảm bảo. Hiện tại, các mặt hàng được giao dịch trong Sở giao dịch hàng hóa không bị hạn chế. Do đó, Sở giao dịch hàng hóa cần áp dụng các tiêu chuẩn để có cơ sở đánh giá hàng hóa trước khi doanh nghiệp niêm yết ”, ông Vinh nhận định.
Nguồn: Báo Hải quan
Việt Nam đang là địa điểm làm việc của hơn 80.000 lao động nước ngoài, theo công bố của ông Ông Lê Quang Trung, Phó Cục trưởng Cục Việc làm (Bộ LĐ-TB&XH).
Số lao động này đến từ hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, họ đang nắm giữ các vị trí quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật. Ông Lê Quang Trung, công bố thông tin này tại Hội nghị truyền thông việc làm đối với cơ quan báo chí, ngày 10/5 tổ chức tại Bình Dương.
Chín mươi lăm phần trăm người lao động nước ngoài ở Việt Nam đều đủ điều kiện được cấp giấy phép lao động, ông Trung nói thêm rằng đây là đội ngũ lành nghề, giàu kinh nghiệm và chuyên nghiệp cho Việt Nam.
Tuy nhiên, ông Trung cũng lưu ý rằng, hiện nay chưa có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời và toàn diện trong công tác quản lý lao động nước ngoài tại các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương, mặt khác các vi phạm cũng chưa được xử lý nghiêm ngặt.
Ý thức chấp hành pháp luật của một số nhà thầu, doanh nghiệp và lao động nước ngoài trong tuyển dụng, sử dụng lao động và giấy phép lao động còn hạn chế, thậm chí một số người nước ngoài đã vào làm việc tại Việt Nam trước khi xin giấy phép lao động.
Số lượng người lao động nước ngoài ngày càng tăng ở Việt Nam đòi hỏi phải cải thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo quyền của người nhập cư, đặc biệt là an sinh xã hội. Cơ quan bảo hiểm xã hội đã xây dựng chương trình bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với lao động nước ngoài, viện dẫn sự cần thiết phải tuân theo các thông lệ quốc tế vì Việt Nam ngày càng tăng cường hội nhập.
Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 yêu cầu đơn vị tuyển dụng lao động nước ngoài bắt buộc phải tham gia chương trình bảo hiểm xã hội, bắt đầu từ năm 2018, để đảm bảo sự bình đẳng và phúc lợi cho người lao động. Tuy nhiên, đến nay, công tác này vẫn chưa được thực hiện do thiếu văn bản hướng dẫn.
Bộ LĐ-TB&XH đề xuất dự thảo Nghị định yêu cầu người lao động nước ngoài tham gia vào tất cả năm chương trình bảo hiểm xã hội – bao gồm hưu trí, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất.
Nguồn: VNA
Ngày 16/04/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2018/NĐ-CP quy định về quản lý, bảo vệ kết cấu hạ tầng đường sắt. Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2018.
Theo đó, Nghị định số 56/2018/NĐ-CP này quy định về quản lý, bảo vệ kết cấu hạ tầng đường sắt, bao gồm: Đặt tên tuyến, tên ga đường sắt; tháo dỡ tuyến, đoạn tuyến, ga đường sắt; phạm vi bảo vệ công trình, hành lang an toàn giao thông đường sắt; quản lý, sử dụng, khai thác đất dành cho đường sắt; trách nhiệm quản lý, bảo vệ kết cấu hạ tầng đường sắt.
Trong đó, về phạm vi bảo vệ đường sắt, phạm vi bảo vệ trên không của đường sắt tính từ đỉnh ray trở lên theo phương thẳng đứng không nhỏ hơn trị số sau: Đối với đường sắt khổ 1000 milimét là 5,3 mét; đối với đường sắt khổ 1435 milimét là 6,55 mét; đối với đường sắt tốc độ cao là 7,7 mét; đối với tuyến đường sắt đô thị là 6,3 mét áp dụng phương thức lấy điện trên cao; 4,3 mét đối với tuyến đường sắt đô thị áp dụng phương thức lấy điện từ ray thứ ba.
Đối với các tuyến đường sắt hiện hữu đang khai thác không thỏa mãn điều kiện quy định nêu trên, khi cải tạo, nâng cấp công trình vi phạm phạm vi bảo vệ đường sắt, chủ đầu tư dự án phải có giải pháp kỹ thuật để không làm ảnh hưởng đến sự ổn định, tuổi thọ và bảo đảm an toàn cho công trình đường sắt và phải được cấp có thẩm quyền chấp thuận trước khi thực hiện.
Phạm vi bảo vệ hai bên đường sắt theo phương ngang đối với nền đường không đào, không đắp tính từ mép ngoài của ray ngoài cùng trở ra được xác định như sau: Đối với đường sắt tốc độ cao là 7,5 mét; đối với đường sắt đô thị là 5,4 mét; đối với đường sắt còn lại là 5,6 mét.
Ngoài ra, Nghị này này cũng quy định phạm vi bảo vệ hai bên đường sắt theo phương ngang đối với nền đường đào, nền đường đắp được xác định như sau: 5 mét tính từ chân nền đường đắp hoặc mép đỉnh nền đường đào; 3 mét tính từ mép ngoài rãnh dọc hay mép ngoài rãnh đỉnh của nền đường hoặc mép ngoài của công trình phòng hộ, gia cố đối với nền đường có rãnh dọc hay rãnh đỉnh, có công trình phòng hộ, gia cố của nền đường.
Có thể thấy, Nghị định số 56/2018/NĐ-CP đã có những hướng dẫn chi tiết, cụ thể về việc xác định phạm vi an toàn giao thông đường sắt, qua đó góp phần nâng cao sự hiểu biết của người dân về an toàn giao thông nói chung và an toàn giao thông đường sắt nói riêng, đồng thời giảm thiểu những sự cố đáng tiếc cũng như thắt chặt sự quản lý của Nhà nước trong hoạt động này.
Ngày 16/06/2017, Quốc hội đã ban hành Luật Đường sắt số 06/2017/QH14. Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2018.
Theo đó, Luật Đường sắt số 06/2017/QH14 quy định về quy hoạch, đầu tư, xây dựng, bảo vệ, quản lý, bảo trì và phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt; công nghiệp đường sắt, phương tiện giao thông đường sắt; tín hiệu, quy tắc giao thông và bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt; kinh doanh đường sắt; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động đường sắt; quản lý nhà nước trong hoạt động đường sắt.
Đáng lưu ý, Luật Đường sắt đã quy định chi tiết về đường sắt tốc độ cao, cụ thể như sau:
Có thể thấy, các quy định về đường sắt tốc độ cao tại Luật Đường sắt năm 2017 được được kỳ vọng sẽ là bước chuẩn bị tiền đề, tạo hành lang pháp lý quan trọng làm cơ sở để quá trình đầu tư, quản lý, khai thác trong tương lai sẽ trở nên thuận lợi.
Ngày 15/05/2018, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Thông tư số 02/2018/TT-BKHCN quy định chế độ báo cáo thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ thuộc danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao; mẫu văn bản trong hoạt động cấp giấy phép chuyển giao công nghệ, đăng ký gia hạn, sửa đổi, bổ sung nội dung chuyển giao công nghệ. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2018.
Theo đó, Thông tư số 02/2018/TT-BKHCN đã có những hướng dẫn báo cáo thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ (CGCN), cụ thể như sau:
Bên nhận công nghệ trong trường hợp CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam, CGCN trong nước; và bên giao công nghệ trong trường hợp CGCN từ Việt Nam ra nước ngoài có trách nhiệm:
+ Bản báo cáo giấy do Thủ trưởng đơn vị ký tên và đóng dấu (đối với tổ chức), hoặc ký và ghi rõ họ tên (đối với cá nhân);
+ Bản báo cáo điện tử phải sử dụng định dạng file PDF, phông chữ tiếng Việt của bộ mã ký tự Unicode theo TCVN 6909:2001, nội dung phải thể hiện đúng với bản báo cáo giấy.
Bằng những quy định chi tiết và rõ ràng, Thông tư số 02/2018/TT-BKHCN đã góp phần làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, cũng như có những hướng dẫn cụ thể trong hoạt động báo cáo thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ đúng với quy định của pháp luật.