Ngày 19/06/2017 Quốc hội đã ban hành Luật số 07/2017/QH14 quy định về Chuyển giao công nghệ. Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2018.
Theo đó, Luật số 07/2017/QH14 tập trung chủ yếu vào việc bổ sung cơ chế hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng, đổi mới công nghệ; sửa đổi quy định về thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Đặc biệt, Luật này đã có những bổ sung về giải pháp phát triển thị trường khoa học và công nghệ; quy định về chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp; sửa đổi quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về chuyển giao công nghệ. Các nội dung chính,cơ bản biểu hiện vào 5 nhóm vấn đề lớn, cụ thể như sau:
Có thể thấy, Luật số 07/2017/QH14 đã có những quy định chi tiết rõ ràng và phù hợp với xu thể hội nhâp quốc tế hơn so với các quy định tước đây về chuyển giao công nghệ, qua đó được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, cơ chế hỗ trợ đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng, đổi mới công nghệ trong kinh doanh sản xuất.
Ngày 23/11/2017, Quốc hội đã ban hành Luật số 20/2017/QH14 quy định về quản lý nợ công. Luật này có hiệu lực kể tư ngày 01/07/2018.
Theo đó, Luật số 20/2017/QH14 có những nội dung mới đáng chú ý cụ thể như sau:
Ngoài ra, về xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý nợ công, Luật số 20/2017/QH14 cũng quy định người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải giải trình và chịu trách nhiệm khi để xảy ra vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, người đứng đầu cơ quan, tổ chức bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể thấy Luật số 20/2017/QH14 về quản lý nợ công đã có những quy định tiến bộ, chi tiết và rõ ràng hơn so với những quy định trước đây, điều này được kỳ vọng sẽ nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức có liên quan cũng như tăng cường sự minh bạch, chặt chẽ của quản lý Nhà nước trong các hoạt động này.
Ngày 20/06/2017 Quốc hộ đã ban hành Luật số 10/2017/QH14 quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2018.
Theo đó, Luật số 10/2017/QH14 đã quy định về thiệt hại được bồi thường thuộc Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, cụ thể như sau:
Về phương thức quy định các thiệt hại được bồi thường, Luật này quy định về các thiệt hại được bồi thường theo hướng quy định chi tiết, cụ thể các loại thiệt hại cũng như cách thức xác định, căn cứ xác định từng loại thiệt hại được bồi thường mà không quy định theo hướng mang tính khái quát, hay mang tính nguyên tắc chung. Phương thức quy định này là phù hợp với định hướng rút ngắn thời hạn giải quyết yêu cầu bồi thường mà số 10/2017/QH14 quy định vì để có thể rút ngắn thời hạn giải quyết yêu cầu bồi thường, thì các loại thiệt hại cần phải được quy định cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác minh thiệt hại cũng như thương lượng việc bồi thường trong quá trình giải quyết yêu cầu bồi thường.
Trong từng nhóm thiệt hại được bồi thường Luật số 10/2017/QH14 quy định thêm nhiều loại thiệt hại cụ thể được bồi thường. Việc bổ sung thêm các loại thiệt hại được bồi thường là bởi, trên thực tiễn đã phát sinh nhiều loại thiệt hại mà thực tế người bị thiệt hại đã phải gánh chịu nhưng không được bồi thường do Luật TNBTCNN 2009 chưa có quy định.
Bên cạnh đó, Luật này cũng quy định tăng mức thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong một số trường hợp như: bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù; sức khỏe bị xâm phạm; bị khởi tố, truy tố, xét xử mà không bị tạm giữ, tạm giam; bị xét xử, thi hành án cải tạo không giam giữ, phạt tù cho hưởng án treo mà không bị tạm giữ, tạm giam. Việc tăng mức bồi thường cho các thiệt hại nêu trên cho phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và điều kiện phát triển kinh tế – xã hội, cũng như bảo đảm hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại.
Có thể thấy, Luật số 10/2017/QH14 đã có những quy định mới tiến bộ, rõ ràng và chi tiết hơn so với các quy định trước đây về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, điều này được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao sự minh bạch, công bằng cũng như phát huy tốt trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong các hoạt động quản lý kinh tế – xã hội.
Ngày 26/06/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 92/2018/NĐ-CP về Quản lý và sử dụng Quỹ Tích lũy trả nợ. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2018.
Theo đó Nghị định số 92/2018/NĐ-CP quy định về Quản lý và sử dụng Quỹ Tích lũy trả nợ, trong đó nêu rõ các khoản chi của Quỹ tích lũy – quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước trả nợ , được chi cho các trường hợp cụ thể như sau:
Có thể thấy, Nghị định số 92/2018/NĐ-CP đã quy định cụ thể về hoạt động quản lý và sử dụng Quỹ tích lũy, đặc biệt việc quản lý chặt chẽ những khoản chi của Quỹ tích lũy, điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo công khai, minh bạch, đảm bảo an toàn, thanh khoản và hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng nguồn vốn của Quỹ.
Ngày 31/12/2017, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 27/2017/TT-NHNN sửa đổi Thông tư số 03/2013/TT-NHNN quy định về hoạt động thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2018
Theo đó, Thông tư số 27/2017/TT-NHNN đãcó những sửa đổi, bổ sung mới quan trọng như sau:
Có thể thấy, Thông tư số 27/2017/TT-NHNN đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng, qua đó góp phần hoàn thiện những quy định trong hoạt động thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngày 18/6/2018, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 15/2018/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 22/2016/TT-NHNN quy định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua trái phiếu doanh nghiệp do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành.Thông tư này sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 02/8/2018.
Theo đó, ngoài các về nguyên tắc mua trái phiếu doanh nghiệp của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài như:
Thông tư số 15/2018/TT-NHNN còn quy định các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong đó có mục đích để cơ cấu lại các khoản nợ của doanh nghiệp.
Có thể thấy, Thông tư số 15/2018/TT-NHNN đã bổ sung, hoàn thiện quy định về mua trái phiếu doanh nghiệp của tổ chức tính dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, điều này ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao quản lý hoạt động của các tổ chức tín dụng, ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Ngày 19/06/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 17/CT-TTG về Tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng thuộc nhóm hàng dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền do thủ tướng chính phủ ban hành. Chỉ thị này có hiệu lực kể từ ngày ban hành.
Theo đó, Chỉ thị số 17/CT-TTG quy định một nội dung chính, đáng chú ý như sau:
1. Bộ Y tế: Tăng cường quản lý, ứng dụng khoa học công nghệ vào kiểm soát đối với nguồn gốc, chất lượng của các nguyên liệu, các sản phẩm chăm sóc nâng cao sức khỏe con người; đề xuất thực hiện thống nhất và xã hội hóa công tác giám định, kiểm định; thực hiện kết nối một cửa quốc gia, chủ động chia sẻ thông tin về cấp phép, quản lý đối với sản phẩm dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền, phối hợp với các cơ quan liên quan phòng chống hiệu quả buôn lậu, sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng quá hạn sử dụng thuộc phạm vi quản lý.
2. Bộ Công Thương: Tăng cường quản lý giám sát về điều kiện hoạt động thương mại điện tử các mô hình hoạt động kinh doanh dựa trên ứng dụng công nghệ số để kinh doanh; chỉ đạo các đơn vị trực thuộc phối hợp các cơ quan chức năng, các chủ thể quyền, xử lý cá nhân, tổ chức sử dụng các trang mạng xã hội kinh doanh dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền giả, không rõ nguồn gốc, xuất xứ, không đảm bảo chất lượng, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
3. Bộ Khoa học và Công nghệ: Tăng cường công tác kiểm tra nhà nước về đo lường chất lượng và ghi nhãn hàng hóa, phối hợp tích cực với các lực lượng chức năng trong công tác phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền.
Như vậy, Chỉ thị đã có những chỉ đạo chi tiết và kịp thời nhằm tăng cường sự giám sát, quản lý của các cơ quan tổ chức có thẩm quyền trong việc phòng chống gian lận thương mại cũng các hành vi kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng.
Ngày 15/06/2018 Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 87/2018/NĐ-CP quy định về hoạt động kinh doanh khí và điều kiện kinh doanh khí tại thị trường Việt Nam. Nghị định này sẽ có hiệu lực từ ngày 01/08/2018.
Theo đó Nghị định số 87/2018/NĐ-CP quy định chi tiết về điều kiện đối với thương nhân xuất nhập khẩu khí cũng như điều kiện sản xuất, chế biến khí, cụ thể như sau:
Có thể thấy, Nghị định số 87/2018/NĐ-CP đã quy định chi tiết về các hoạt động sản xuất, kinh doanh, buôn bán khí cũng như việc xuất nhập khẩu các loại khí ra nước ngoài, thông qua đó, các quy định này được kỳ vọng sẽ tăng cường sự chặt chẽ và hiệu của của hệ thống quản lý của nhà nước trong các hoạt động này.
Ngày 15/ 06/ 2018, Bộ Công thương ban hành Thông tư số 12/2018/TT-BCT quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương và nghị định số 69/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương. Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày ban hành.
Theo đó, Thông tư 12/2018/TT-BCT quy định việc áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu đối với hàng hóa quản lý theo hạn ngạch thuế quan nhập khẩu như sau:
Bên cạnh đó, Nghị định này còn quy định các đối tượng được xem xét cấp Giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan, cụ thể là:
Ngoài ra, đối với các mặt hàng muối, trứng gia cầm, đường tinh luyện, đường thô Bộ Công thương trao đổi với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính để xác định điểm phân giao hạn ngạch thuế.
Như vậy, Thông tư 12/2018/TT-BCT đã có quy định khá chi tiết về việc áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu với các hàng hóa quản lý theo hạn ngạch thuế, đồng tời cũng nêu rõ các hàng hóa được xem xét cấp Giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan, qua đó, tạo cơ sở để áp dụng pháp luật Thuế cụ thể đối với từng mặt hàng, hạn chế sự gian lận, trốn thuế trong hoat động của các doanh nghiệp.