Ngày 16/9/2019, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 65/2019/TT-BTC quy định về nội dung đào tạo, thi và công nhận chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 01/11/2019.
Thông tư 65/2019/TT-BTC nêu rõ, các loại chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm quy định tại thông tư này bao gồm:
1. Chứng chỉ tư vấn bảo hiểm;
2. Chứng chỉ đánh giá rủi ro bảo hiểm;
3. Chứng chỉ giám định tổn thất bảo hiểm;
4. Chứng chỉ hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm.
Bộ Tài chính quy định, Trung tâm Nghiên cứu và đào tạo bảo hiểm là đơn vị tổ chức thi chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm quy định tại Thông tư này. Hình thức thi là thi tập trung.
Theo Thông tư, việc đăng ký dự thi được thực hiện trực tuyến trên trang thông tin điện tử của Trung tâm Nghiên cứu và đào tạo bảo hiểm. Cơ sở đào tạo chịu trách nhiệm đăng ký cho các thí sinh là học viên của cơ sở đào tạo. Các thí sinh tự do đăng ký dự thi trực tiếp với trung tâm.
Đề thi chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm được ra dưới dạng trắc nghiệm. Mỗi đề thi gồm phần kiến thức chung và phần kiến thức chuyên môn. Số lượng câu hỏi liên quan đến phần kiến thức chung chiếm 40%, số lượng câu hỏi liên quan đến phần kiến thức chuyên môn chiếm 60% tổng số lượng câu hỏi mỗi đề thi.
Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc kỳ thi, kết quả thi sẽ được thông báo trên trang thông tin điện tử của Trung tâm và trang thông tin điện tử của Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm.
Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm sẽ có trách nhiệm ban hành quy chế thi chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm; xây dựng ngân hàng câu hỏi thi chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm theo quy định tại thông tư này; kiểm tra, giám sát việc tổ chức thi, cấp, thu hồi chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm.
Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm cũng là cơ quan công nhận chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm do cơ sở đào tạo ở nước ngoài cấp và thông báo công khai danh sách người có chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm do các cơ sở đào tạo ở nước ngoài cấp được công nhận tại Việt Nam trên trang thông tin điện tử của Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm.
Ngoài ra, Thông tư cũng quy định 05 trường hợp thu hồi chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm:
– Cá nhân được cấp chứng chỉ nhưng không tham dự kỳ thi chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm hoặc không thi đỗ kỳ thi chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm do Trung tâm tổ chức;
– Cá nhân được cấp chứng chỉ đã giả mạo, gian lận về thông tin kê khai;
– Người được cấp chứng chỉ nhờ người khác thi hộ;
– Kết quả phúc tra bài thi của thí sinh không đủ điểm đỗ;
– Người được cấp chứng chỉ cho người khác sử dụng chứng chỉ.
Người bị thu hồi chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm trong các trường hợp nói trên (trừ trường hợp thu hồi do kết quả phúc tra bài thi) không được dự thi các kỳ thi về phụ trợ bảo hiểm trong vòng 12 tháng kể từ ngày có Quyết định thu hồi chứng chỉ.
Sự ra đời của Thông tư số 65/2019/TT-BTC là vô cùng cần thiết trong bối cảnh thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ, đa dạng; tạo cơ sở pháp lý quan trọng góp phần bảo đảm các quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
Ngày 16/09/2019 Tổng Kiểm toán Nhà nước vừa ban hành Quyết định 03/2019/QĐ-KTNN về trách nhiệm gửi báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách đến Kiểm toán nhà nước (KTNN) của các đơn vị được kiểm toán. Quyết định 03/2019/QĐ-KTNN có hiệu lực kể từ ngày 31/10/2019. Theo đó:
Các đơn vị dự toán cấp I thuộc ngân sách trung ương gửi Báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý đến KTNN trước ngày 01/10 năm sau.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
Gửi báo cáo quyết toán ngân sách địa phương đến KTNN trước ngày 01/10 năm sau;
Gửi quyết toán ngân sách địa phương đến KTNN chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày HĐND cấp tỉnh phê chuẩn;
Bộ Tài chính gửi Báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước đến KTNN chậm nhất 14 tháng sau khi kết thúc năm ngân sách.
Các doanh nghiệp nhà nước, công ty mẹ, tổng công ty nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối:
Kết thúc năm tài chính, lập và gửi Báo cáo tài chính, Báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý đến KTNN trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm;
Các trường hợp có quy định khác về thời điểm lập, phát hành Báo cáo tài chính, Báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách thì gửi cho KTNN sau thời điểm lập, phát hành theo quy định riêng.
Tóm lại, việc ban hành Quyết định 03/2019/QĐ-KTNN tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng cho các đơn vị nắm bắt thực hiện, tạo sự thống nhất, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước.
Ngày 21/08/2019 Bộ tài chính ban hành Thông tư 55/2019/TT-BTC hướng dẫn bàn giao tiếp nhận nợ và tài sản loại trừ khi chuyển đổi Doanh nghiệp nhà nước.
Thông tư này quy định về nguyên tắc bàn giao, tiếp nhận nợ và loại trừ tài sản như sau:
Các khoản nợ và tài sản bàn giao, tiếp nhận phải đảm bảo có đầy đủ hồ sơ (đối với nợ), có hiện vật (đối với tài sản). Trường hợp nợ không có đủ hồ sơ và tài sản không còn hiện vật thì Công ty Mua bán nợ (sau đây viết tắt là “CTMB nợ”) có văn bản gửi cơ quan đại diện chủ sở hữu (sau đây viết tắt là CQĐD CSH) và doanh nghiệp thông báo lý do không tiếp nhận để doanh nghiệp tiếp tục quản lý, theo dõi hoặc xử lý theo quy định hiện hành về chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp.
Được thực hiện căn cứ vào quyết định công bố giá trị doanh nghiệp của CQĐD CSH theo quy định pháp luật về chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. Quyết định này phải nêu cụ thể giá trị nợ và tài sản loại trừ, làm căn cứ để CTMB nợ thực hiện tiếp nhận.
Trường hợp CQĐD CSH quyết định công bố điều chỉnh giá trị doanh nghiệp:
a) Nếu doanh nghiệp chưa ký Biên bản bàn giao (sau đây viết tắt là “BBBG”) nợ và tài sản loại trừ với CTMB nợ thì thực hiện bàn giao nợ và tài sản loại trừ theo quyết định công bố điều chỉnh giá trị doanh nghiệp.
b) Nếu doanh nghiệp đã ký BBBG nợ và tài sản loại trừ với CTMB nợ theo quyết định công bố giá trị doanh nghiệp, CQĐD CSH có văn bản đề nghị CTMB nợ thông báo hiện trạng của các khoản nợ và tài sản loại trừ đã tiếp nhận theo BBBG theo tiêu chí: đã xử lý, thu hồi và chưa xử lý, thu hồi trước khi công bố quyết định điều chỉnh giá trị doanh nghiệp.
CQĐD CSH, CTMB nợ và doanh nghiệp phải lập BBBG, có chữ ký xác nhận của các bên. CQĐD CSH có thể ủy quyền (bằng văn bản) cho CT HĐTV/TGĐ/NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp có nợ và tài sản loại trừ để thực hiện bàn giao cho CTMB nợ.
CTMB nợ kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ của chủ nợ, chủ tài sản theo quy định kể từ ngày ký BBBG, đồng thời doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo với khách nợ và các cơ quan liên quan về việc chuyển giao quyền chủ nợ cho CTMB nợ (trong thời hạn 10 ngày)
Đối với các khoản nợ và tài sản loại trừ tiếp nhận theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ (nếu có), CTMB nợ, CQĐD CSH và doanh nghiệp thực hiện bàn giao, tiếp nhận, xử lý nợ, tài sản như đối với nợ, tài sản loại trừ khỏi giá trị doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu và phù hợp với ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Khi có vướng mắc, CTMB nợ báo cáo Bộ Tài chính xem xét, giải quyết quyền hoặc báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Doanh nghiệp thực hiện xử lý tài chính đối với nợ và tài sản loại trừ theo quy định của pháp luật đối với từng hình thức sắp xếp, chuyển đổi sở hữu.
Ngày 30/8/2019, Bộ Y Tế ban hành Thông tư 24/2019/TT-BYT về quản lý và sử dụng phụ gia thực phẩm (PGTP). Thông tư trên chính thức có hiệu lực kể từ ngày 16/10/2019.
Theo đó, việc sử dụng PGTP phải tuân thủ 04 nguyên tắc cơ bản sau:
Phải bảo đảm:
PGTP được phép sử dụng và đúng đối tượng thực phẩm;
Không vượt quá mức sử dụng tối đa đối với một loại thực phẩm hoặc nhóm thực phẩm;
Hạn chế đến mức thấp nhất lượng PGTP cần thiết để đạt được hiệu quả kỹ thuật mong muốn.
Chỉ được sử dụng nếu việc sử dụng này đạt được hiệu quả mong muốn nhưng không có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe con người, không lừa dối người tiêu dùng và chỉ để đáp ứng một hoặc nhiều chức năng của PGTP.
PGTP phải đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, an toàn thực phẩm theo các văn bản được quy định;
Ngoài việc PGTP có trong thực phẩm do được sử dụng trong quá trình sản xuất thực phẩm, PGTP còn có thể có trong thực phẩm do được mang vào từ các nguyên liệu hoặc thành phần để sản xuất thực phẩm đã có chứa PGTP và phải tuân thủ quy định tại Điều 9 Thông tư này.
Quy định nêu trên tạo ra hành lang pháp lý rõ hơn trong công tác quản lý, sử dụng phụ gia thực phẩm, đảm bảo chất lượng phụ gia, an toàn thực phẩm, đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng trong bối cảnh thực phẩm tràn lan như hiện nay.
Ngày 11/07/2019, Chính phủ ban hành Nghị định 62/2019/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 35/2015/NĐ-CP về quản lý, sử dụng đất trồng lúa. Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01/09/2019.
Theo đó, điều kiện chuyển đổi từ đất trồng lúa sang trồng cây hàng năm là một trong những nội dung được điều chỉnh tại Nghị định 62/2019/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 35/2015/NĐ-CP về quản lý và sử dụng đất trồng lúa.
Nghị định mới quy định rõ ràng về các điều kiện chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng cây hàng năm, cây lâu năm hoặc trồng lúa kết hợp nuôi trồng thủy sản, cụ thể như sau:
Không làm mất đi các điều kiện phù hợp để trồng lúa trở lại; không gây ô nhiễm, thoái hóa đất trồng lúa; không làm hư hỏng công trình giao thông, công trình thủy lợi phục vụ trồng lúa;
Phù hợp với kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ trồng lúa sang trồng cây hàng năm, cây lâu năm hoặc trồng lúa kết hợp nuôi trồng thủy sản trên đất trồng lúa của cấp xã, đảm bảo công khai, minh bạch;
Trường hợp trồng lúa kết hợp nuôi trồng thủy sản, cho phép sử dụng tối đa 20% diện tích đất trồng lúa để hạ thấp mặt bằng cho nuôi trồng thủy sản; độ sâu của mặt bằng hạ thấp không quá 120 cm khi cần thiết phải phục hồi lại được mặt bằng để trồng lúa trở lại;
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ trồng lúa sang trồng cây lâu năm phải theo vùng, để hình thành các vùng sản xuất tập trung và khai thác hiệu quả cơ sở hạ tầng sẵn có; phù hợp với định hướng hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp của địa phương;
Nghị định số 62/2019/NĐ-CP áp dụng đối với đất trồng lúa, trên cơ sở chuyển đổi cơ cấu đất đai, việc điều chỉnh quy định về đất trồng lúa là cần thiết nhằm mục đích tập trung phát triển ở những vùng nhất định, hình thành vùng sản xuất tập trung hướng đến mục tiêu phát triển nông nghiệp của từng địa phương nói riêng và cả nước nói chung.
Ngày 16/09/2019 Tổng Kiểm toán Nhà nước vừa ban hành Quyết định 03/2019/QĐ-KTNN về trách nhiệm gửi báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách đến Kiểm toán nhà nước (KTNN) của các đơn vị được kiểm toán. Quyết định 03/2019/QĐ-KTNN có hiệu lực kể từ ngày 31/10/2019. Theo đó:
Các đơn vị dự toán cấp I thuộc ngân sách trung ương gửi Báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý đến KTNN trước ngày 01/10 năm sau.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
Gửi báo cáo quyết toán ngân sách địa phương đến KTNN trước ngày 01/10 năm sau;
Gửi quyết toán ngân sách địa phương đến KTNN chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày HĐND cấp tỉnh phê chuẩn;
Bộ Tài chính gửi Báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước đến KTNN chậm nhất 14 tháng sau khi kết thúc năm ngân sách.
Các doanh nghiệp nhà nước, công ty mẹ, tổng công ty nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối:
Kết thúc năm tài chính, lập và gửi Báo cáo tài chính, Báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý đến KTNN trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm;
Các trường hợp có quy định khác về thời điểm lập, phát hành Báo cáo tài chính, Báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách thì gửi cho KTNN sau thời điểm lập, phát hành theo quy định riêng.
Tóm lại, việc ban hành Quyết định 03/2019/QĐ-KTNN tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng cho các đơn vị nắm bắt thực hiện, tạo sự thống nhất, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước.
Ngày 08/8/2019, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 48/2019/TT-BTC hướng dẫn việc trích lập và xử lý các khoản dự phòng tại doanh nghiệp. Thông tư 48/2019/TT-BTC (sau đây gọi tắt là “Thông tư”) có hiệu lực từ ngày 10/10/2019. Thông tư này làm hết hiệu lực 03 Thông tư trước đó là: Thông tư 228/2009/TT-BTC, Thông tư 34/2011/TT-BTC, Thông tư 89/2013/TT-BTC.
Theo đó, về việc trích lập dự phòng tổn thất các khoản Đầu tư tài chính,Doanh nghiệp sẽ không được trích lập dự phòng rủi ro cho khoản đầu tư ra nước ngoài, chỉ được trích lập rủi ro đối với các khoản đầu tư tài chính trong nước. Cụ thể:
Tại Khoản 4 Điều 3 của Thông tư quy định: “Điều 3. Nguyên tắc chung trong trích lập các khoản dự phòng: …4. Doanh nghiệp không trích lập dự phòng rủi ro cho các khoản đầu tư ra nước ngoài.”
Tại Điểm a Khoản 1 Điều 5 của Thông tư quy định: “1. Các khoản đầu tư chứng khoán: a) Đối tượng lập dự phòng là các loại chứng khoán do các tổ chức kinh tế trong nước phát hành theo quy định của pháp luật chứng khoán mà doanh nghiệp đang sở hữu tại thời điểm lập báo cáo tài chính năm có đủ các điều kiện sau:- Là chứng khoán niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán trong nước mà doanh nghiệp đang đầu tư; – Là chứng khoán được tự do mua bán trên thị trường mà tại thời điểm lập báo cáo tài chính năm giá chứng khoán thực tế trên thị trường thấp hơn giá trị của khoản đầu tư chứng khoán đang hạch toán trên sổ kế toán.”
Từ những phân tích trên cho thấy Thông tư số 48/2019/TT-BTC đã đem lại những giá trị không hề nhỏ đối với Doanh nghiệp Việt Nam, giúp Doanh nghiệp Việt Nam tháo gỡ được rất nhiều khó khăn trong giải quyết các khoản thu có liên quan trực tiếp đến số thuế thu nhập doanh nghiệp phải đóng, đặc biệt đã có những quy định cụ thể hơn, khả thi hơn đối với quỹ dự phòng cho các khoản nợ phải thu khó đòi. Ngoài ra, Thông tư này cũng đã thống nhất lại toàn bộ những quy định trước đó hiện đang nằm rải rác tại nhiều văn bản khác nhau có liên quan đến trích quỹ dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản đầu tư, nợ phải thu khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, công trình xây dựng tại doanh nghiệp, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp trong việc nắm bắt, hiểu rõ và vận dụng quy định này trên thực tế. Do đó, Thông tư này là cơ sở vững chắc để nhiều Doanh nghiệp có thể hạn chế được rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận trong quá trình kinh doanh của mình.
Ngày 15/08/2019, Chính phủ ban hành Nghị định 69/2019/ND-CP quy định về việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho Nhà đầu tư khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình theo hình thức Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao (Dự án BT). Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/10/2019.
Theo đó, Điều 5 Nghị định 69/2019/NĐ-CP quy định về quỹ đất sử dụng để thanh toán cho nhà Đầu tư thực hiện dự án BT, cụ thể:
1. Quỹ đất thanh toán cho Nhà đầu tư áp dụng hình thức Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê theo quy định của pháp luật về đất đai.
2. Quỹ đất thanh toán cho Nhà đầu tư là đất chưa giải phóng mặt bằng hoặc đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng, đảm bảo đúng quy định sau:
a) Đất thuộc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
b) Việc thu hồi đất đối với quỹ đất thanh toán cho Nhà đầu tư thực hiện Dự án BT phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật về đất đai.
c) Trường hợp sử dụng quỹ đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng để thanh toán cho Nhà đầu tư thực hiện Dự án BT thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trước khi quyết định chủ trương đầu tư Dự án.
Trên cơ sở đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền lựa chọn quỹ đất thanh toán cho Nhà đầu tư đảm bảo giá trị quỹ đất dự kiến thanh toán tương đương với giá trị Dự án BT được phê duyệt, trong đó:
Khi ký Hợp đồng BT, trường hợp chưa xác định được giá trị quỹ đất thực tế thì giá trị quỹ đất dự kiến thanh toán tương đương được xác định tại thời điểm ký Hợp đồng BT bằng (=) Diện tích quỹ đất dự kiến giao nhân (x) với Giá đất theo mục đích sử dụng mới tại Bảng giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành nhân (x) với Hệ số điều chỉnh giá đất để tính thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành.
Khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyết định giao đất, cho thuê đất thì thực hiện xác định giá trị quỹ đất thanh toán theo quy định tại Điều 6 Nghị định này.
Tóm lại, việc ban hành nghị định 69/2019/NĐ-CP đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng trong việc thực hiện các Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (Build – Transfer), là tiền đề để khuyến khích các nhà đầu tư tham gia vào hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của quốc gia cũng như thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Ngày 08/10/2019, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định 30/2019 ban hành Quy chế xây dựng, quản lý, thực hiện Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam. Theo đó, việc tổ chức xét chọn sản phẩm đạt thương hiệu quốc gia Việt Nam được tổ chức 02 năm một lần vào các năm chẵn. Trình tự, thủ tục thực hiện như sau:
Bước 1: Doanh nghiệp nộp 03 bộ hồ sơ đăng ký xét chọn đến Bộ Công Thương trước ngày 31/3 của năm xét chọn theo một trong các cách thức sau:
Qua đường bưu điện;
Trực tiếp tại trụ sở Bộ Công Thương;
Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Công Thương.
Trong đó, hồ sơ bao gồm:
Đơn đăng ký tham gia xét chọn;
Bản sao Thông báo của cơ quan thuế về việc xác nhận doanh nghiệp đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về thuế trong 02 năm liên tiếp trước năm xét chọn;
Bản sao Thông báo của cơ quan bảo hiểm xã hội về kết quả đóng bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp trong 02 năm liên tiếp trước năm xét chọn;
Bản sao Thỏa ước lao động tập thể có hiệu lực đã được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về lao động;
Bản sao báo cáo định kỳ kết quả quan trắc môi trường theo quy định của pháp luật trong 02 năm liên tiếp trước năm xét chọn;
Bản sao Báo cáo tài chính đã được kiểm toán trong 02 năm liên tiếp trước năm xét chọn;
Bản sao giấy tờ về chất lượng của sản phẩm đăng ký xét chọn còn hiệu lực;
Bản sao Giấy chứng nhận ISO 14001, ISO 22000, ISO 17025, SA 8000, OHSAS 18001, HACCP, GMP, VietGap, Global Gap và bản sao các biên bản đánh giá giám định định kỳ hoặc tương đương (nếu có);
Bản sao Giấy chứng nhận các giải thưởng về chất lượng, uy tín thương hiệu (nếu có).
Bước 2: Trong vòng 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ của doanh nghiệp, trường hợp hồ sơ không đầy đủ theo quy định, cơ quan quản lý Chương trình có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp để bổ sung và hoàn chỉnh hồ sơ. Doanh nghiệp có trách nhiệm nộp bổ sung hồ sơ đầy đủ trước ngày 01 tháng 5 của năm xét chọn.
Bước 3: Trước ngày 30 tháng 9 của năm xét chọn, cơ quan quản lý Chương trình thông báo kết quả xét chọn sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia Việt Nam tới các doanh nghiệp.
Kết quả xét chọn có hiệu lực 02 năm kể từ ngày Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành quyết định công nhận danh sách sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia Việt Nam.
Quyết định 30/2019 có hiệu lực từ ngày 01/12/2019. Việc quy định về tổ chức xét chọn sản phẩm đạt thương hiệu quốc gia Việt Nam tại Quyết định 30/2019 này góp phần thúc đẩy phát triển ngoại thương, quảng bá hình ảnh quốc gia, thương hiệu quốc gia Việt Nam thông qua sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia Việt Nam.