Ngày 30/12/2019, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 27/2019/TT-BGDĐT quy định nội dung chính ghi trên văn bằng và phụ lục văn bằng giáo dục đại học (bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ và các văn bằng trình độ tương đương). Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 01/03/2020.
Theo Thông tư, có 10 nội dung chính ghi trên văn bằng giáo dục đại học, bao gồm:
Tiêu ngữ
Tên văn bằng theo từng trình độ đào tạo (bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ, văn bằng trình độ tương đương).
Ngành đào tạo.
Tên cơ sở giáo dục đại học cấp văn bằng.
Họ, chữ đệm, tên của người được cấp văn bằng.
Ngày tháng năm sinh của người được cấp văn bằng.
Hạng tốt nghiệp (nếu có).
Địa danh, ngày tháng năm cấp văn bằng.
Chức danh, chữ ký, họ, chữ đệm, tên của người có thẩm quyền cấp văn bằng và đóng dấu theo quy định;
Số hiệu, số vào sổ gốc cấp văn bằng.
Ngoài các nội dung chính phải có trên văn bằng đại học như liệt kê, cơ sở giáo dục đại học được bổ sung các nội dung khác ghi trên văn bằng giáo dục đại học phù hợp với quy định của pháp luật.
Như vậy, điểm đáng chú ý là trên văn bằng giáo dục đại học không còn thể hiện nội dung về hình thức đào tạo: “Chính quy”, “Vừa làm vừa học”, “Đào tạo từ xa” như được hướng dẫn tại Phụ lục ban hành Kèm theo Thông tư số 19/2011/TT-BGDĐT. Theo Điều 3 của Thông tư 27/2019/TT-BGDĐT thì hình thức đào tạo là một trong các nội dung được ghi trên phụ lục văn bằng. Ngoài ra, quy định việc ghi tên văn bằng theo từng trình độ đào tạo: bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ cho thấy bằng tốt nghiệp đại học sẽ được gọi chung là bằng cử nhân, không còn ghi theo ngành học như hiện nay (bằng kỹ sư, bằng kiến trúc sư, bằng bác sĩ…).
Thông tư 27/2019/TT-BGDĐT có hiệu lực thi hành từ ngày 01/03/2020 và thay thế cho các Thông tư 23/2009/TT-BGDĐT về mẫu bằng thạc sĩ, Thông tư 24/2009/TT-BGDĐT về mẫu bằng tiến sĩ; Thông tư 19/2011/TT-BGDĐT về mẫu bằng tốt nghiệp đại học; Thông tư 20/2011/TT-BGDĐT về mẫu bằng tiến sĩ danh dự. Việc quy định nội dung chính ghi trên văn bằng và phụ lục văn bằng giáo dục đại học của Thông tư đã bảo đảm sự thống nhất với Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2019 về việc không phân biệt văn bằng đại học theo hình thức đào tạo.
Ngày 03/02/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2020/NĐ-CP hướng dẫn luật quốc tịch Việt Nam. Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 20/03/2020.
Theo đó, việc xin trở lại quốc tịch Việt Nam được hướng dẫn tại Điều 3, Nghị định 16/2020/NĐ-CP với nội dung chính như sau:
Về cơ quan tiếp nhận:
Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam có thể trực tiếp nộp hồ sơ hoặc gửi hồ sơ qua hệ thống bưu chính đến cơ quan có thẩm quyền thụ lý hồ sơ theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam và Nghị định này, không ủy quyền cho người khác nộp hồ sơ, bao gồm: Sở Tư pháp cấp tỉnh, Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Cơ quan đại diện kiêm nhiệm hoặc Cơ quan đại diện nào thuận tiện nhất (trường hợp không có Cơ quan đại diện).
Yêu cầu pháp lý về hồ sơ:
Trường hợp pháp luật quy định giấy tờ phải nộp là bản sao thì người yêu cầu giải quyết các việc về quốc tịch có thể nộp giấy tờ là bản chụp từ bản chính, bản sao được chứng thực từ bản chính hoặc bản sao được cấp từ sổ gốc. Nếu nộp bản chụp từ bản chính thì phải có bản chính để đối chiếu; người tiếp nhận hồ sơ kiểm tra, đối chiếu bản sao với bản chính và ký xác nhận đã đối chiếu.
Trường hợp hồ sơ được gửi qua hệ thống bưu chính thì bản sao giấy tờ phải được chứng thực từ bản chính hoặc được cấp từ sổ gốc; Đơn, Tờ khai, Bản khai lý lịch phải được chứng thực chữ ký theo quy định của pháp luật.
Xử lý hồ sơ
Người thụ lý hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ của giấy tờ trong hồ sơ. Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, hợp lệ thì hướng dẫn bổ sung, hoàn thiện. Nếu hồ sơ đầy đủ, hợp lệ thì người thụ lý hồ sơ ghi vào Sổ thụ lý và cấp Phiếu thụ lý hồ sơ theo mẫu quy định cho người nộp hồ sơ. Trường hợp hồ sơ được gửi qua hệ thống bưu chính thì người thụ lý hồ sơ gửi Phiếu thụ lý cho người nộp hồ sơ qua hệ thống bưu chính.
Trả kết quả:
Kết quả giải quyết các việc về quốc tịch được trả trực tiếp hoặc gửi qua hệ thống bưu chính cho người yêu cầu. Người yêu cầu trả kết quả qua hệ thống bưu chính phải nộp chi phí trả kết quả qua hệ thống bưu chính.
Việc ban hành Nghị định 16/2020/NĐ-CP đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo các thủ tục liên quan đến quốc tịch Việt Nam được thực hiện một cách đúng đắn và thống nhất. Đồng thời, Nghị định giúp người dân có thể nắm bắt được trình tự thực hiện, công khai, minh bạch các thủ tục hành chính.
Nghị định số 10/2020/NĐ-CP do Chính Phủ ban hành ngày 17/1/2020 có hiệu lực ngày 1/4/2020 quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh bằng xe ô tô. Theo Nghị định này quy định thì điều kiện để kinh doanh vận tải hành khách bằng xe ô tô phảo đảm bảo các điều kiện sau:
Thứ 1: Điều kiện kinh doanh vận tải hành khách bằng xe ô tô các doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau đây:
a) Phải thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp theo hợp đồng thuê phương tiện bằng văn bản của đơn vị kinh doanh vận tải hành khách bằng xe ô tô với tổ chức, cá nhân hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh theo quy định của pháp luật.
b) Xe ô tô kinh doanh vận tải hành khách theo tuyến cố định phải có sức chứa từ 09 chỗ trở lên (kể cả người lái xe) và có niên hạn sử dụng như sau: Không quá 15 năm (tính từ năm sản xuất) đối với xe hoạt động trên tuyến cự ly trên 300 ki-lô-mét, không quá 20 năm (tính từ năm sản xuất) đối với xe hoạt động trên tuyến có cự ly từ 300 ki-lô-mét trở xuống;
c) Xe ô tô kinh doanh vận tải hành khách bằng xe buýt có niên hạn sử dụng không quá 20 năm (tính từ năm sản xuất);
d) Xe taxi phải có sức chứa dưới 09 chỗ (kể cả người lái) và có niên hạn sử dụng không quá 12 năm (tính từ năm sản xuất); không sử dụng xe cải tạo từ xe có sức chứa từ 09 chỗ trở lên thành xe ô tô dưới 09 chỗ (kể cả người lái xe) hoặc xe có kích thước, kiểu dáng tương tự xe từ 09 chỗ trở lên để kinh doanh vận tải hành khách bằng xe taxi;
đ) Xe ô tô kinh doanh vận tải khách du lịch có niên hạn sử dụng không quá 15 năm (tính từ năm sản xuất). Xe ô tô kinh doanh vận tải hành khách theo hợp đồng có niên hạn sử dụng như sau: Không quá 15 năm (tính từ năm sản xuất) đối với xe hoạt động trên hành trình có cự ly trên 300 ki-lô-mét, không quá 20 năm (tính từ năm sản xuất) đối với xe hoạt động trên hành trình có cự ly từ 300 ki-lô-mét trở xuống.
Riêng xe ô tô kinh doanh vận tải hành khách du lịch và xe ô tô kinh doanh vận tải hành khách theo hợp đồng có sức chứa dưới 09 chỗ (kể cả người lái) sử dụng hợp đồng điện tử có niên hạn sử dụng không quá 12 năm (tính từ năm sản xuất).
Thứ hai: Trước ngày 01 tháng 7 năm 2021, xe ô tô kinh doanh vận tải hành khách có sức chứa từ 09 chỗ (kể cả người lái xe) trở lên phải lắp camera đảm bảo ghi, lưu trữ hình ảnh trên xe (bao gồm cả lái xe và cửa lên xuống của xe) trong quá trình xe tham gia giao thông. Dữ liệu hình ảnh được cung cấp cho cơ quan Công an, Thanh tra giao thông và cơ quan cấp giấy phép, bảo đảm giám sát công khai, minh bạch. Thời gian lưu trữ hình ảnh trên xe đảm bảo như sau:
a) Tối thiểu 24 giờ gần nhất đối với xe hoạt động trên hành trình có cự ly đến 500 ki-lô-mét;
b) Tối thiểu 72 giờ gần nhất đối với xe hoạt động trên hành trình có cự ly trên 500 ki-lô-mét.
Nghị định này được ban hành giúp cho các Doanh nghiệp có mong muốn kinh doanh vận tải hành khách bằng xe ô tô có 1 chuẩn mực về hệ thống pháp lý để các doanh nghiệp thực hiện.
Đứng trước nguy cơ bùng phát bệnh dịch do chủng mới của Vi rút Corona (“nCoV”) gây ra, ngày 31/01/2020 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 06/CT-TTg nhằm tăng cường các biện pháp phòng, chống bệnh dịch đang có chiếu hướng diễn biến ngày càng phức tạp hiện nay. Bài viết này sẽ điểm qua một vài nội dung quan trọng của Chỉ thị. Cụ thể:
Thứ nhất: Chỉ thị đã đưa ra các quy định cấm/hạn chế/kiểm soát nghiêm ngặt hoạt động xuất nhập cảnh tại Việt Nam.
Tạm dừng cấp phép bay đối với tất cả các chuyến bay từ vùng có dịch của Trung Quốc đến Việt Nam và ngược lại trừ trường hợp đặc biệt phải được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ.
Tạm dừng việc cấp thị thực du lịch cho khách nước ngoài (bao gồm cả khách Trung Quốc) đang hoặc đã từng ở Trung Quốc trong 2 tuần qua, trừ thị thực công vụ trong trường hợp đặc biệt.
Dừng việc xuất nhập cảnh bằng giấy thông hành biên giới với mục đích du lịch.
Cấm việc đi lại qua các đường mòn, lối mở khu vực biên giới Việt Nam – Trung Quốc.
Kiểm soát nghiêm ngặt người qua lại tại tất cả cửa khẩu biên giới, dừng các hoạt động đưa đón khách du lịch, không đưa lao động Việt Nam sang Trung Quốc làm việc.
Tăng cường việc giám sát công dân, lao động Trung Quốc sinh sống, làm việc tại Việt Nam về quê ăn tết nay trở lại Việt Nam, giám sát chặt chẽ các trường hợp nghi ngờ nhiễm bệnh trong vòng 14 ngày; cách ly, theo dõi, điều trị kịp thời các trường hợp nhiễm bệnh.
Thực hiện việc khử trùng các điểm nghi ngờ dịch bệnh theo quy định.
Thứ hai: Chỉ thị đã đưa ra các quy định về hạn chế giao thương
Tạm thời đóng các đường mòn, lối mở; không khuyến khích giao thương, giao lưu với Trung Quốc trong thời gian dịch bệnh.
Nghiêm cấm việc đầu cơ, găm hàng, tăng giá các loại khẩu trang, vật tư, trang thiết bị y tế phục vụ phòng, chống dịch bệnh. Các bộ, địa phương tăng cường kiểm soát, quản lý việc này, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Thứ ba, Chỉ thị cũng đưa ra nhiệm vụ cụ thể cho từng Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các địa phương, các tổ chức, cá nhân phối hợp chặt chẽ để thực hiện.
Mặc dù đã có những chỉ đạo trước đó (Công điện số 121/CĐ-TTg ngày 23/01/2020, Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 28/01/2020 và chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng tại Công văn số 79-CV/TW ngày 30/01/2020). Tuy nhiên, tại nhiều địa phương, tinh thần và nhận thức phòng, chống dịch bệnh này chưa cao, chưa có kế hoạch, phương án, biện pháp cụ thể, chủ động ứng phó với dịch bệnh. Chỉ thị 06/CT-TTg ra đời nhằm đưa ra những chấn chỉnh kịp thời về tầm quan trọng của việc phòng, chống dịch nCoV, thông qua đó, từ Chỉnh phủ đến từng người dân phải đoàn kết, đồng lòng để kiểm soát tốt bệnh dịch, bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe người dân, hạn chế thấp nhất tử vong có thể xảy ra.
Chỉ thị số 06/CT-TTg có hiệu lực kể từ ngày ký, tức nhằm ngày 31/01/2020.
Ngày 02/02/2020, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành Công điện số 01/CĐ-LĐTBXH về tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus conora gây ra.
Theo đó, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề nghị Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ, thực hiện một số các nội dung liên quan đến việc quản lý việc xuất nhập cảnh của người lao động là công dân Trung Quốc như sau:
Yêu cầu các đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động là người nước ngoài tại các địa phương tạm dừng tiếp nhận lao động từ Trung Quốc về quê ăn Tết quay trở lại Việt Nam làm việc và lao động là người nước ngoài di chuyển qua các vùng dịch trong thời gian công bố dịch bệnh nCoV;
Cục Việc làm chủ trì, phối hợp với các địa phương rà soát, thống kê, cập nhật hàng ngày các số liệu, thông tin y tế liên quan tới lao động nước ngoài đến từ các vùng có dịch, nhất là lao động Trung Quốc.
Công điện số 01/CĐ-LĐTBXH quy định về việc hạn chế quyền nhập cảnh của người lao động Trung Quốc về quê ăn tết trở lại Việt Nam làm việc là hết sức cần thiết trong bối cảnh tình hình bệnh dịch đang diễn biến phức tạp, nhằm mục đích đảm bảo sự an toàn và an ninh quốc gia. Đồng thời, góp phần giúp Trung Quốc giới hạn và khoanh vùng nhằm kiểm soát tối đa sự lây lan của dịch bệnh.
Ngày 19/12/2019 Bộ Tài chính ban hành thông tư số 87/2019/TT-BTC Thông tư hướng dẫn thực hiện xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kho bạc nhà nước. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 01/02/2020.
Thông tư này hướng dẫn về các hành vi vi phạm hành chính, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực kho bạc nhà nước quy định tại Nghị định số 63/2019/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công; thực hành tiết kiệm chống lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước (sau đây gọi là Nghị định số 63/2019/NĐ-CP).
Tại Thông tư này quy định về các hành vi bị xử phạt hành chính trong lĩnh vực kho bạc nhà nước như sau:
Hành vi vi phạm quy định khoản chi ngân sách nhà nước phải có trong dự toán ngân sách nhà nước được cấp có thẩm quyền giao;
Hành vi lập hồ sơ, chứng từ sai chế độ quy định và hành vi lập hồ sơ, chứng từ sai so với hồ sơ, chứng từ gốc tại đơn vị, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;
Hành vi lập hồ sơ, chứng từ giả mạo để chi ngân sách nhà nước, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;
Hành vi vi phạm chế độ thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước;
Hành vi vi phạm thủ tục kiểm soát cam kết chi;
Hành vi vi phạm thủ tục, thời hạn thanh toán tạm ứng ngân sách nhà nước;
Hành vi vi phạm quy định về đăng ký và sử dụng tài khoản tại Kho bạc Nhà nước;
Hành vi lập hồ sơ, giấy tờ giả mạo để làm thủ tục đăng ký và sử dụng tài khoản tại Kho bạc Nhà nước, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Mỗi hành vi vi phạm sẽ có từng chế tài xử phạt hành chính khác nhau. Thông tư giúp cho các đối tượng như : Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kho bạc nhà nước; Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kho bạc nhà nước; Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực kho bạc nhà nước; Tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kho bạc nhà nước có thể dễ dàng theo dõi cũng như thực hiện.
Ngày 26/12/2019, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 16/2019/TT-BXD hướng dẫn xác định chi phí quản lý dự án và tư vấn đầu tư xây dựng đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn nhà nước ngoài ngân sách và dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) quy định tại khoản 2 Điều 32 Nghị định số 68/2019/NĐ-CP ngày 14 tháng 8 năm 2019 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng.
Theo đó, việc xác định chi phí quản lý dự án, chi phí tư vấn trong giai đoạn chuyển tiếp quy định tại Điều 36 Nghị định 68/2019/NĐ-CP được quy định cụ thể như sau:
Dự án đầu tư xây dựng đã phê duyệt trước ngày 01/10/2019 và đang triển khai thực hiện thì tiếp tục sử dụng, vận dụng định mức chi phí quản lý và định mức chi phí tư vấn theo quy định tại Nghị định 32/2015/NĐ-CP.
Trường hợp gói thầu quản lý dự án, gói thầu tư vấn chưa ký kết hợp đồng sau ngày 15/02/2020 thì người quyết định đầu tư quyết định áp dụng định mức chi phí quản lý dự án và định mức chi phí tư vấn ban hành tại Thông tư 16/2019/TT-BXD để điều chỉnh giá gói thầu quản lý dự án, gói thầu tư vấn nhưng phải đáp ứng yêu cầu tiến độ và hiệu quả của dự án.
Đối với dự án đầu tư xây dựng đã phê duyệt sau ngày 01/10/2019:
Trường hợp các gói thầu quản lý dự án, gói thầu tư vấn đã sử dụng, vận dụng định mức chi phí theo quy định tại Nghị định 32/2015/NĐ-CP để xác định giá gói thầu quản lý dự án, gói thầu tư vấn, đã lựa chọn được nhà thầu và đã ký kết hợp đồng trước ngày 15/02/2020 thì thực hiện theo nội dung hợp đồng đã ký kết.
Trường hợp gói thầu quản lý dự án, gói thầu tư vấn chưa thực hiện lựa chọn nhà thầu hoặc đang thực hiện lựa ch ọn nhà thầu trước ngày 15/02/2020 thì áp dụng định mức chi phí quản lý dự án, chi phí tư vấn ban hành tại Thông tư 16/2019/TT-BXD để cập nhật giá gói thầu quản lý dự án, gói thầu tư vấn.
Đối với các hợp đồng quản lý dự án, tư vấn đã ký kết trước ngày 15/02/2020 thì thực hiện theo nội dung của hợp đồng và phù hợp với quy định của pháp luật áp dụng cho hợp đồng.
Việc ban hành thông tư tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc xác định chi phí quản lý dự án và tư vấn đầu tư xây dựng đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn nhà nước ngoài ngân sách và dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2020 có hiệu lực từ ngày 01/01/2020.
Theo đó, tiếp tục cải thiện điểm số và thứ hạng các chỉ số môi trường kinh doanh như sau:
Về Khởi sự kinh doanh
Bộ LĐTB&XH phối hợp với Bộ KH&ĐT xây dựng Hệ thống thông tin khai trình lao động trực tuyến kết nối với Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp (hoàn thành trong quý IV/2020)
Bộ KH&ĐT tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) và trình Quốc hội vào kỳ họp tháng 5/2020; …
Về Giải quyết tranh chấp hợp đồng và Giải quyết phá sản doanh nghiệp
Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện các giải pháp cải thiện chỉ số Giải quyết tranh chấp hợp đồng và Giải quyết phá sản doanh nghiệp; đề xuất sửa đổi Luật Thi hành án dân sự nhằm đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian và giảm chi phí thi hành án dân sự. Thực hiện triển khai thu án phí qua hình thức không dùng tiền mặt.
Đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt và cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chỉ đạo thực hiện cung cấp ít nhất 30% số dịch vụ công trực tuyến thuộc thẩm quyền giải quyết ở cấp độ 4; cho phép người dân, doanh nghiệp thanh toán không dùng tiền mặt bằng nhiều phương tiện khác nhau; tích hợp lên Cổng dịch vụ công quốc gia theo lộ trình; đẩy mạnh phương thức tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích.
Về Cấp phép xây dựng
BXD rà soát lại quy trình, thủ tục cấp giấy phép xây dựng nhằm rút ngắn thời gian cấp giấy phép và thanh tra, kiểm tra xây dựng không quá 50 ngày;
Đề xuất áp dụng phương pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư xây dựng nhằm giảm số lượng các cuộc kiểm tra, số lần phê duyệt; …
Theo Nghị quyết 02/NQ-CP Chính phủ đã đưa ra rất nhiều các giải pháp để tăng tính cạnh tranh cho Doanh nghiệp góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo môi trường kinh doanh thân thiện, thu hút nhiều các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Ngày 22/11/2019, Ngân hàng nhà nước (NHNN) Việt Nam ban hành Thông tư số 23/2019/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2014/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán.
Theo đó, quy định tổng hạn mức giao dịch qua các Ví điện tử cá nhân của 01 khách hàng tại 01 tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử (bao gồm giao dịch thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ hợp pháp và giao dịch chuyển tiền từ Ví điện tử cho Ví điện tử khác do cùng tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử mở) tối đa là 100 triệu đồng/tháng. Trước đó, trong dự thảo Thông tư này, Ngân hàng Nhà nước đã đề xuất hạn mức giao dịch ví điện tử đối với cá nhân là 20 triệu đồng/ngày và 100 triệu đồng/tháng; của tổ chức là 100 triệu đồng/ngày và 500 triệu đồng/tháng. Đề xuất này nhận được nhiều ý kiến trái chiều, cho rằng hạn mức này sẽ kìm hãm thanh toán điện tử.
Quy định trên không áp dụng đối với Ví điện tử cá nhân của người có ký hợp đồng/thỏa thuận làm đơn vị chấp nhận thanh toán với tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử.
Đồng thời, Thông tư cũng bổ sung quy định xác thực thông tin khách hàng mở Ví điện tử như sau:
Chủ Ví điện tử phải cung cấp, cập nhật đầy đủ, chính xác các thông tin trong hồ sơ mở Ví điện tử cho tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử và chịu trách nhiệm về tính trung thực của các thông tin mà mình cung cấp.
Tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử có trách nhiệm kiểm tra, đối chiếu, đảm bảo hồ sơ mở Ví điện tử của khách hàng là đầy đủ, hợp lệ theo quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 9 Thông tư 39/2014 (đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Thông tư 23/2019).
Thông tư 23/2019/TT-NHNN có hiệu lực thi hành từ ngày 07/01/2020 và bãi bỏ khoản 3 Điều 25 Thông tư 37/2016/TT-NHNN; sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 1 Điều 5 Thông tư 04/2016/TT-NHNN. Việc quy định hạn mức gia dịch đối với ví điện tử nhằm giảm thiểu rủi ro về lợi dụng để rửa tiền, thực hiện hành vi bất hợp pháp.