Ngày 14/03/2018, Bộ Y tế đã ban hành Công văn số 4338/QLD-PCD về giải đáp một số nội dung thắc mắc về điều kiện kinh doanh đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên quan đến lĩnh vực dược phẩm. Công văn này có hiệu lực kể từ ngày 14/03/2018.
Theo đó, Công văn số 4338/QLD-PCD đã đưa ra giải thích về quy định về điều kiện đối với doanh nghiệp nhập khẩu và phân phối thuốc như sau:
1. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo quản và vận chuyển của nước ngoài cũng phải tuân theo quy định của Luật Dược năm 2016 về việc đáp ứng các điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược đối với cơ sở nhập khẩu thuốc, nguyên liệu làm thuốc, trong đó có điều kiện cơ sở phải có địa điểm, kho bảo quản thuốc, trang thiết bị bảo quản, phương tiện vận chuyển, hệ thống quản lý chất lượng, tài liệu chuyên môn kỹ thuật và nhân sự.
2. Doanh nghiệp nước ngoài có thể tự xây kho để bảo quản thuốc do chính doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu. Trường hợp doanh nghiệp nước ngoài chưa xây kho hoặc chưa sở hữu kho thì có thể thuê kho bảo quản thuốc, nguyên liệu làm thuốc đáp ứng GSP của doanh nghiệp Việt Nam. Trong trường hợp thuê kho, doanh nghiệp nước ngoài phải chịu trách nhiệm trực tiếp vận hành và quản lý kho bảo quản thuốc và nguyên liệu làm thuốc đó.
Vì vậy, nếu cho phép doanh nghiệp nước ngoài thực hiện quyền nhập khẩu được thuê dịch vụ bảo quản từ một doanh nghiệp nước ngoài khác thì sẽ không đáp ứng yêu cầu về việc doanh nghiệp nhập khẩu phải trực tiếp chịu trách nhiệm vận hành và quản lý kho như đã nêu ở trên. Nếu cho phép tất cả doanh nghiệp nhập khẩu (bao gồm doanh nghiệp nhập khẩu trong nước và doanh nghiệp nước ngoài thực hiện quyền nhập khẩu) được sử dụng dịch vụ bảo quản của bên thứ ba thì sẽ dẫn đến tình trạng cơ sở nhập khẩu không thực hiện đầy đủ và hết trách nhiệm trong việc quản lý, đảm bảo chất lượng thuốc nhập khẩu. Khi đó, vai trò của các doanh nghiệp nhập khẩu chỉ còn là đứng tên trên tờ khai hải quan
Như vậy, có thể thấy, Công văn số 4338/QLD-PCD đã kịp thời hướng dẫn để giải quyết các vướng mắc phát sinh trên thực tế về điều kiện trong hoạt động xuất nhập khẩu, kinh doanh sản xuất dược phẩm đối với các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
Ngày 06/02/2018, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 13/2018/TT-BTC quy định việc quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác điều ước quốc tế và công tác thỏa thuận quốc tế. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 02/04/2018.
Theo đó, Thông tư số 13/2018/TT-BTC quy định về mức chi áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế theo quy định tại Luật Điều ước quốc tế năm 2016 và Pháp lệnh ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế năm 2007, cụ thể như sau:
1. Các nội dung chi tổ chức hội nghị trong nước, công tác phí cho cán bộ đi công tác trong nước, thực hiện theo mức chi quy định tại Thông tư số 40/2017/TT-BTC; chi công tác phí cho cán bộ đi công tác ở nước ngoài theo quy định tại Thông tư số 102/2012/TT-BTC; chi làm đêm, làm thêm giờ, theo mức chi quy định tại Thông tư liên tịch số 08/2005/TTLT-BNV-BTC.
2. Chi rà soát văn bản trong nước và rà soát, thống kê các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế trong cùng lĩnh vực phục vụ trực tiếp công tác xây dựng điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế…thực hiện theo mức chi quy định tại Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP.
3. Về các khoản chi khác gồm: Cấp bản sao điều ước quốc tế; chi phí sao lục, in ấn tài liệu; chi mua, thu thập tài liệu; chi mua văn phòng phẩm phục vụ trực tiếp cho soạn thảo điều ước quốc tế thì thực hiện theo chứng từ chi thực tế, theo hợp đồng của đơn vị cung ứng. Trường hợp thu thập tài liệu phải có bảng kê khai ký nhận tiền của người cung cấp tài liệu.
4. Các khoản chi đóng góp tài chính theo điều ước quốc tế, mức đóng góp thực hiện căn cứ vào quy định của điều ước quốc tế, tổ chức quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên. Trong trường hợp có sự thay đổi mức đóng góp tài chính thì cơ quan chủ trì thực hiện điều ước quốc tế lấy ý kiến của Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính và cơ quan có liên quan; trình Thủ tướng Chính phủ quyết định làm căn cứ đóng góp.
5. Đối với một số chế độ, mức chi có tính chất đặc thù như chi soạn thảo mới dự thảo điều ước quốc tế là 8 triệu đồng/dự thảo văn bản; soạn thảo dự thảo sửa đổi, bổ sung, gia hạn là 5 triệu đồng/dự thảo văn bản. Trường hợp chi cho các cá nhân tham gia cuộc họp, mức chi cho người chủ trì là 150.000 đồng/người/buổi; các thành viên tham dự là 100.000 đồng/người/buổi…
6. Các khoản chi phí khác phát sinh phục vụ trực tiếp công tác điều ước quốc tế, công tác thỏa thuận quốc tế thì thanh toán theo hoá đơn, chứng từ chi tiêu thực tế hợp pháp theo quy định của Luật Kế toán và nằm trong phạm vi dự toán ngân sách đã được giao.
Như vậy, có thể thấy, Thông tư số 13/2018/TT-BTC đã có những quy định cụ thể và chi tiết về mức chi ngân sách cho các hoạt động liên quan tới công tác điều ước quốc tế và công tác thỏa thuận quốc tế theo hướng minh bạch, rõ ràng hơn so với các văn bản trước đây.
Ngày 22/02/2018, Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư số 22/2018/TT-BTC quy định về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định điều kiện kinh doanh để cấp Giấy phép sản xuất rượu, Giấy phép sản xuất thuốc lá. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 08/04/2018.
Theo đó, Thông tư số 22/2018/TT-BTC đã quy định cụ thể về tổ chức thu phí như sau:
1. Bộ Công Thương là cơ quan cấp Giấy phép sản xuất rượu công nghiệp có quy mô từ 03 triệu lít/năm trở lên và Giấy phép phân phối rượu;
2. Sở Công Thương là cơ quan cấp Giấy phép sản xuất rượu công nghiệp có quy mô dưới 03 triệu lít/năm và Giấy phép bán buôn rượu trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
3. Phòng Kinh tế hoặc Phòng Kinh tế và Hạ tầng thuộc Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là cơ quan cấp Giấy phép sản xuất rượu thủ công nhằm mục đích kinh doanh, Giấy phép bán lẻ rượu và Giấy phép bán rượu tiêu dùng tại chỗ trên địa bàn quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
4. Bộ Công Thương là cơ quan cấp, cấp lại, sửa đổi bổ sung Giấy phép chế biến nguyên liệu thuốc lá.
Thông tư này ban hành nhằm sửa đổi các quy định về tổ chức thu phí tại Điều 4 Thông tư 299/2016/TT-BTC thay thế Điều 9, Điều 11 Nghị định số 94/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2012 của Chính phủ.
Như vậy, có thể thấy, Thông tư số 22/2018/TT-BTC đã có những quy định cụ thể và chi tiết hơn về thẩm quyền, chức năng và nhiệm vụ của từng cơ quan cấp phép, từ đó quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan thu phí, quản lý và sử dụng phí thẩm định điều kiện kinh doanh để cấp Giấy phép sản xuất rượu, Giấy phép sản xuất thuốc lá.
Ngày 21/03/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2013/NĐ-CP ngày 28/8/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số. Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 10/05/2018.
Theo đó, Nghị định số 48/2018/NĐ-CP có một số nội dung chính như sau:
1. Đối tượng bị áp dụng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số gồm:
– Cá nhân, tổ chức Việt Nam, cá nhân, tổ chức nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số;
– Tổ chức là đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số theo quy định gồm: Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, doanh nghiệp bảo hiểm sức khỏe, doanh nghiệp tái bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, văn phòng đại diện của doanh nghiệp tái bảo hiểm nước ngoài, văn phòng đại diện của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài, đại lý bảo hiểm là tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh xổ số, đại lý xổ số là tổ chức và các tổ chức khác có liên quan quy định tại Nghị định này.
2. Hành vi vi phạm các quy định về Giấy phép thành lập và hoạt động, Giấy phép đặt Văn phòng đại diện doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm bị phạt cảnh cáo gồm:
– Không thực hiện đăng báo hàng ngày trong 05 số báo liên tiếp về những nội dung phải công bố theo quy định của pháp luật;
– Công bố không đúng thời hạn một trong những nội dung trong Giấy phép thành lập và hoạt động hoặc Giấy phép đặt Văn phòng đại diện theo quy định của pháp luật; Không công bố các nội dung hoặc nội dung sửa đổi, bổ sung tại Giấy phép đặt Văn phòng đại diện theo quy định của pháp luật
3. Bổ sung quy định đối với hành vi sửa chữa Giấy phép thành lập và hoạt động hoặc Giấy phép đặt Văn phòng đại diện, ngoài bị phạt từ 20 – 30 triệu đồng còn bị tịch thu tang vật.
4. Quy định xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về quản trị, điều hành, kiểm soát, cụ thể bao gồm:
– Phạt tiền từ 20 – 30 triệu đồng đối với hành vi bổ nhiệm Tổng Giám đốc/Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc/Phó Giám đốc, Giám đốc chi nhánh, Trưởng Văn phòng đại diện doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm kiêm nhiệm chức danh người đứng đầu của quá một chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm hoặc các bộ phận nghiệp vụ. Bổ nhiệm Giám đốc, Phó Giám đốc của chi nhánh nước ngoài kiêm nhiệm chức danh người đứng đầu của quá một bộ phận nghiệp vụ của chi nhánh đó.
– Phạt tiền từ 20 – 30 triệu đồng đối với hành vi bổ nhiệm chuyên gia tính toán của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, doanh nghiệp bảo hiểm sức khỏe, chuyên gia tính toán dự phòng và khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, doanh nghiệp tái bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài đồng thời kiêm nhiệm các chức danh Tổng Giám đốc (Giám đốc), kế toán trưởng.
– Phạt tiền từ 40 – 50 triệu đồng đối với hành vi bổ nhiệm các Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc), chuyên gia tính toán, Giám đốc Chi nhánh, Trưởng Văn phòng đại diện, Trưởng Ban Kiểm soát, Kiểm soát viên, Trưởng Ban kiểm toán nội bộ, người đứng đầu các bộ phận nghiệp vụ, thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên không đáp ứng được các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật.
– Phạt tiền từ 90 – 100 triệu đồng đối với một trong các hành vi vi phạm về gian lận trong kinh doanh bảo hiểm mà số tiền chiếm đoạt dưới 20.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại dưới 50.000.000 đồng hoặc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Có thể thấy, Nghị định số 48/2018/NĐ-CP đã quy định chi tiết hơn so với trước đây về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh xổ số, góp phần tạo ra một hành lang pháp lý rõ ràng và minh bạch, thúc đẩy các hoạt động trong kinh doanh bảo hiểm và xổ số phát triển, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Ngày 09/02/2018, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 17/2018/TT-BTC sửa đổi Thông tư số 305/2016/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí dịch vụ duy trì hệ thống kiểm tra trạng thái chứng thư số. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 26/03/2018.
Theo đó, Thông tư số 17/2018/TT-BTC đưa ra một số thay đổi đáng chú ý như sau:
1. Thu hẹp đối tượng áp dụng quy định về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí dịch vụ duy trì hệ thống kiểm tra trạng thái chứng thư số, cụ thể là Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số ký hợp đồng với thuê bao trước ngày 01/01/2017 không thuộc đối tượng áp dụng của Thông tư này.
2. Điều chỉnh mức thu phí dịch vụ duy trì trạng thái chứng thư số:
– Đối với đối tượng thuê bao là tổ chức, doanh nghiệp (không bao gồm đối tượng thuê bao là cá nhân), trừ chứng thư số đang còn hiệu lực theo hợp đồng ký trước ngày 01 tháng 01 năm 2017, áp dụng mức thu phí dịch vụ duy trì hệ thống kiểm tra trạng thái chứng thư số: 3.000 đồng/tháng/01 chứng thư số của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số.
– Đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số cấp cho thuê bao theo hợp đồng ký trước ngày 01 tháng 01 năm 2017: không phải nộp phí từ ngày 01 tháng 07 năm 2017 đến khi hết hạn hợp đồng.
3. Quy định rõ trường hợp chứng thư số do doanh nghiệp cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số cấp cho thuê bao phát sinh hiệu lực hoạt động tại bất cứ thời điểm nào của tháng được tính là 01 (một) tháng sử dụng.
Như vậy, Thông tư số 17/2018/TT-BTC đã có sự điều chỉnh về cả đối tượng và mức phí thu để phù hợp với thực tế, góp phần khuyến khích các cá nhân, tổ chức trong xã hội tăng cường sử dụng dịch vụ này.
Ngày 14/03/2018, Tổng cục Hải quan ban hành Công văn số 1338/TCHQ-GSQL quy định về quy định về thể thức C/O mẫu D. Công văn này có hiệu lực kể từ ngày ban hành.
Theo đó, Công văn số 1338/TCHQ-GSQL quy định:
1. Đối với các C/O mẫu D do Thái Lan, Lào, Philippines, Indonesia, Brunei, Cambodia, Myanmar, Việt Nam phát hành, thể thức C/O với dòng chữ “ORIGINAL” lệch sang bên phải không ảnh hưởng đến tính hợp lệ của C/O.
2. Cơ quan Hải quan xem xét chấp nhận C/O mẫu D có chữ “ORIGINAL” góc bên phải C/O.
Công văn này được ban hành nhằm giải quyết vướng mắc theo phản ánh của một số Cục Hải quan các tỉnh, thành phố về việc nhận được thể thức C/O mẫu D của một số nước tham gia Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) cấp không đúng mẫu, cụ thể C/O mẫu D do Singapore, Malaysia, Thái Lan, Lào, Philippines, Indonesia, Cambodia, Myanmar, Việt Nam phát hành với dòng chữ “ORIGINAL” lệch sang bên phải trong khi mẫu theo cam kết tại Hiệp định vị trị chữ “ORIGINAL” nằm ở giữa trang.
Qua Công văn số 1338/TCHQ-GSQL, có thể thấy, Tổng cục Hải quan đã và đang sát sao với các vấn đề của ngành, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các phòng ban cũng như từng cán bộ hải quan, đồng thời đảm bảo cho quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu.
Ngày 02/02/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 17/2018/NĐ-CP quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/07/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản. Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 25/03/2018.
Theo đó, Nghị định số 17/2018/NĐ-CP đưa ra một số điểm mới đáng chú ý như sau:
1. Về chính sách đầu tư: Ngân sách trung ương đầu tư 100% kinh phí xây dựng các hạng mục thiết yếu của cảng cá loại I, khu neo đậu tránh trú bão cấp vùng (bao gồm cầu cảng; kè bờ, kè chắn sóng, chắn cát; nạo vét luồng ra vào cảng, vùng nước neo đậu tàu; công trình neo buộc tàu; hệ thống xử lý nước thải; nhà phân loại; nhà điều hành; sân và đường nội bộ; hệ thống đèn chiếu sáng; hệ thống phao tiêu, báo hiệu, đèn tín hiệu; hệ thống thông tin liên lạc chuyên dùng) và đầu tư xây dựng 05 Trung tâm nghề cá lớn (cảng cá động lực).
2. Bổ sung cơ chế xử lý rủi ro trong chính sách tín dụng: cho phép thực hiện cơ chế chuyển đổi chủ tàu trong trường hợp chủ tàu không còn khả năng tiếp tục thực hiện dự án đóng mới, nâng cấp tàu hoặc chủ tàu đã hoàn thành đóng mới nhưng không đủ năng lực để hoạt động khai thác hải sản, chủ tàu mới tiếp tục được hưởng hỗ trợ lãi suất khi nhận bàn giao lại tàu và khoản nợ vay từ chủ tàu cũ.
3. Bổ sung chính sách hỗ trợ một lần sau đầu tư: đối tượng được hỗ trợ là chủ tàu đóng mới và sở hữu tàu khai thác hải sản xa bờ hoặc tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ có tổng công suất máy chính từ 800 CV trở lên.
4. Ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí mua bảo hiểm cho các tàu khai thác hải sản xa bờ, tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là thành viên tổ đội, nghiệp đoàn nghề cá, hợp tác xã khai thác hải sản và có tổng công suất máy chính từ 90 CV trở lên. Cụ thể, hỗ trợ hàng năm 100% kinh phí mua bảo hiểm tai nạn thuyền viên cho mỗi thuyền viên làm việc trên tàu. Hỗ trợ hàng năm 50% kinh phí mua bảo hiểm thân tàu (bảo hiểm mọi rủi ro đối với thân tàu, không bao gồm trang thiết bị đánh bắt hải sản, ngư lưới cụ trên tàu).
Việc ra đời Nghị định số 17/2018/NĐ-CP là một bước tiến quan trọng đối với chính sách phát triển thủy sản của Việt Nam. Nghị định này là cơ sở đảm bảo cho việc áp dụng có hiệu quả quản lý trên thực tiễn của các cơ quan có thẩm quyền, nâng cao quyền lợi của nhóm lao động trong lĩnh vực thủy sản, tạo nền tảng cho việc hội tụ các nguồn lực kinh tế cũng như cơ chế để thúc đẩy lĩnh vực thủy sản phát triển một cách mạnh mẽ và bền vững.
Ngày 12/03/2018, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư số 04/2018/TT-NHNN sửa đổi Thông tư số 08/2017/TT-NHNN quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2018.
Theo đó, Thông tư số 04/2018/TT-NHNN đưa ra một số điểm mới đáng chú ý như sau:
1. Bố sung thêm 04 biện pháp xử lý trong giám sát ngân hàng, bao gồm:
– Khuyến nghị, cảnh báo;
– Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;
– Áp dụng can thiệp sớm;
– Kiến nghị cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý giám sát ngân hàng khác theo quy định của pháp luật.
2. Quy định cụ thể về thẩm quyền áp dụng can thiệp sớm đối với đối tượng giám sát ngân hàng, cụ thể là:
– Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi không có Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét, ban hành văn bản áp dụng can thiệp sớm đối với đối tượng giám sát ngân hàng;
– Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng xem xét, ban hành văn bản áp dụng can thiệp sớm đối với đối tượng giám sát ngân hàng là quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô trên địa bàn nơi có Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng;
– Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi không có Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng xem xét, ban hành văn bản áp dụng can thiệp sớm đối với đối tượng giám sát ngân hàng là quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô trên địa bàn.
3. Quy định về theo dõi, đôn đốc, đánh giá việc thực hiện phương án khắc phục của đối tượng giám sát ngân hàng áp dụng can thiệp sớm.
Như vậy, bằng những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng, Thông tư số 04/2018/TT-NHNN được kỳ vọng sẽ là khung pháp lý đảm bảo tính chính xác, khách quan, trung thực, công khai, kịp thời của hoạt động này, đồng thời không làm cản trở hoạt động bình thường của đối tượng bị giám sát.
Ngày 15/03/2018, Trưởng Ban Chỉ đạo 896 đã ban hành Quyết định số 111/QĐ-BCĐ896 về kế hoạch triển khai thực hiện đề án tổng thể đơn giản hoá thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư năm 2018. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ban hành.
Theo đó, Quyết định số 111/QĐ-BCĐ896 đề ra kế hoạch ba giai đoạn:
1. Quý I/2018 yêu cầu đặt ra là phải xây dựng kế hoach triển khai, với mục tiêu kết quả đạt được là phải ban hành được Quyết định phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án của Văn phòng Ban Chỉ đạo, Bộ, ngành và địa phương. Nhiệm vụ này gắn với trách nhiệm của Văn phòng Ban Chỉ đạo; các Bộ, ngành và Ban Chỉ đạo 896 các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương.
2. Quý II/2018 nhiệm vụ là rà soát, đề xuất phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư của các Bộ, ngành. Nhiệm vụ này phải đạt được các yêu cầu cơ bản cụ thể như sau:
– Báo cáo kết quả rà soát;
– Ban hành được Nghị quyết của Chính phủ về phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân thuộc phạm vi chức năng quản lý của các Bộ, ngành;
– Quyết định ban hành Kế hoạch triển khai Nghị quyết Chính phủ của các Bộ, ngành;
Đối với nhiệm vụ trong Quý II này yêu cầu sự chủ trì của Bộ Nội vụ, các bộ ngành và sự phối hợp thực hiện của Văn phòng Ban Chỉ đạo, Văn phòng Chính phủ.
3. Quý III, Quý IV/2018, đồng thời là nhiệm vụ xuyên suốt của năm 2018 chính là xây dựng hoàn thành Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Hoàn thành nhiệm vụ này là cơ sở quan trọng để thực hiện và triển khai các nhiệm vụ tiếp theo.
Như vậy, có thể thấy, vấn đề đơn giản hoá thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư tương đối phức tạp, cần nhiều thời gian, nhân lực và công sức để hoàn thiện. Tuy nhiên, với mục tiêu được định hướng rõ ràng, Quyết định số 111/QĐ-BCĐ896 được kỳ vọng sẽ mang lại những giá trị to lớn trong công cuộc cải cách thủ tục hành chính của Việt Nam.
Ngày 12/03/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 14/2018/QĐ-TTg về việc ban hành quy chế phối hợp cấp phép, kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày 01/05/2018.
Theo đó, Quy chế phối hợp cấp phép, kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam quy định như sau:
1. Về nguyên tắc phối hợp, Quy chế quy định việc phối hợp phải bảo đảm hiệu quả, cụ thể trách nhiệm phối hợp của từng Bộ trong việc cấp, cấp lại, sửa đổi, bổ sung, gia hạn quyết định cấp phép, kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam. Bảo đảm bí mật quốc gia, bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật; bảo đảm quốc phòng, an ninh, an toàn trên biển, hải đảo. Việc phối hợp phải trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
2. Về nội dung phối hợp, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo lấy ý kiến hồ sơ đề nghị cấp, sửa đổi, bổ sung, gia hạn quyết định cấp phép hoạt động nghiên cứu khoa học của tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành trong vùng biển Việt Nam; kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm trong quá trình nghiên cứu khoa học của người nước ngoài trong vùng biển Việt Nam. Xem xét việc thay đổi nội dung đã được cấp phép nhưng không thuộc trường hợp sửa đổi, bổ sung, gia hạn quyết định cấp phép nghiên cứu khoa học của tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành trong vùng biển Việt Nam.
3. Yêu cầu các Bộ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan, lực lượng trực thuộc thực hiện phối hợp những nội dung có liên quan. Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam là cơ quan đầu mối, tham mưu giúp Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện các nhiệm vụ phối hợp theo quy định.
Bằng các quy định chi tiết và cụ thể, thông qua Quyết định số 14/2018/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra những chỉ đạo rõ ràng về hoạt động nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, qua đó góp phần nâng cao chất lượng quản lý của Nhà nước, cũng như đẩy mạnh hợp tác, phối hợp giữa các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, thúc đẩy sự phát triển chung của các hoạt động trong lĩnh vực Khoa học – Công nghệ.