Khoản 5 Điều 236 Luật Đất đai năm 2024 bổ sung thẩm quyền của Trọng tài thương mại trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai. Theo quy định mới, tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai có thể được giải quyết bởi Tòa án theo quy định pháp luật tố tụng dân sự hoặc bởi Trọng tài thương mại Việt Nam theo quy định pháp luật về trọng tài thương mại.
Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm cung cấp hồ sơ và tài liệu liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất khi được Tòa án hoặc Trọng tài thương mại Việt Nam yêu cầu để làm căn cứ giải quyết tranh chấp đất đai.
Ngoài ra, Khoản 6, Điều 236 Luật Đất đai 2024 còn quy định về thẩm quyền của hội đồng trọng tài trong việc thu thập chứng cứ từ các cơ quan chức năng có liên quan, tạo ra một điểm rất quan trọng cho phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
So với quy định cũ, Luật Đất đai 2024 đã bổ sung thẩm quyền của trọng tài thương mại trong giải quyết các tranh chấp đất đai. Tuy nhiên, để được giải quyết tại trung tâm trọng tài, các tranh chấp này cần đáp ứng điều kiện phát sinh từ hoạt động thương mại, căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 236 Luật Đất đai 2024.
Luật Đất đai 2024 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 08 năm 2024.
Bản tin này chỉ nhằm mục đích thông tin về những quy định pháp luật mới ban hành, không dùng để tư vấn hay áp dụng cho những trường hợp cụ thể.
Bizlawyer hân hạnh được đồng hành cùng Quý Bạn đọc!
Theo Luật Đất đai 2013, người sử dụng đất có bao gồm hộ gia đình. Tuy nhiên Luật Đất đai 2024 đã loại bỏ quy định về hộ gia đình là đối tượng sử dụng đất. Việc bỏ quy định này nhằm giải quyết khó khăn trong việc xác định các thành viên hộ gia đình và thực hiện giao dịch về quyền sử dụng đất khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên chủ hộ. Đồng thời tên gọi của sổ đỏ và số hồng cũng đã được cập nhật tại Luật Đất đai 2024.
Khoản 4 Điều 256 Luật Đất đai 2024 quy định rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, và quyền sử dụng đất ở, cùng với Giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đã cấp cho đại diện hộ gia đình trước khi Luật Đất đai 2024 có hiệu lực, có thể được cấp đổi nếu các thành viên có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình có nhu cầu. Giấy chứng nhận mới sẽ ghi đầy đủ tên các thành viên có chung quyền sử dụng đất. Việc xác định các thành viên có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình để ghi tên trên Giấy chứng nhận sẽ do các thành viên tự thỏa thuận và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Luật Đất đai 2013 quy định hộ gia đình thuộc một trong những đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Tuy nhiên, theo quy định mới ghi nhận tại Điều 3, Điều 4 Luật Đất đai 2024, hộ gia đình không còn thuộc nhóm đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đối với GCNQSDĐ đã cấp cho hộ gia đình, theo khoản 4 Điều 256 Luật Đất đai 2024, giấy chứng nhận đã cấp trước thời điểm Luật Đất đai 2024 có hiệu lực có thể được cấp đổi nếu các thành viên có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình có nhu cầu. Giấy chứng nhận mới sẽ ghi đầy đủ tên các thành viên có chung quyền sử dụng đất. Việc xác định các thành viên có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình để ghi tên trên Giấy chứng nhận sẽ do các thành viên tự thỏa thuận và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
“Sổ đỏ” và “Sổ hồng” là cách gọi thông dụng của người dân dựa trên màu sắc của các loại giấy tờ xác nhận quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu nhà ở. Khoản 21 Điều 3 Luật Đất đai 2024 quy định rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hợp pháp. Tài sản gắn liền với đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất bao gồm nhà ở và công trình xây dựng gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Luật Đất đai 2024 cũng điều chỉnh các khái niệm liên quan tới GCNQSDĐ thường được gọi là “sổ đỏ” và “sổ hồng”. Theo đó, Luật Đất đai 2013, Nghị định số 88/2009/NĐ-CP và Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT quy định tên gọi của các loại sổ này là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Còn theo Luật Đất đai 2024, từ ngày 01/8, những loại giấy tờ này sẽ có tên gọi chính thức là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất.
Luật Đất đai 2024 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 08 năm 2024.
Bản tin này chỉ nhằm mục đích thông tin về những quy định pháp luật mới ban hành, không dùng để tư vấn hay áp dụng cho những trường hợp cụ thể.
Bizlawyer hân hạnh được đồng hành cùng Quý Bạn đọc!
Từ ngày 01/8, Luật Đất đai 2024 chính thức có hiệu lực. Một trong những quy định mới được nhiều người quan tâm là việc loại bỏ “khung giá đất” trước đó được quy định tại Luật Đất đai 2013.
Luật Đất đai 2013 quy định khung giá đất do Chính phủ ban hành định kỳ 5 năm một lần, là cơ sở để các tỉnh, thành phố xây dựng và công bố bảng giá đất địa phương. Tuy nhiên, tồn tại hai mức giá đất: giá theo khung Nhà nước dùng để tính thuế và giá đền bù, và giá thị trường thường cao hơn nhiều. Luật Đất đai 2024, theo Nghị quyết 18/NQ-TW 2022, đã bãi bỏ khung giá đất, thay vào đó xây dựng bảng giá đất hàng năm. UBND cấp tỉnh sẽ dựa trên các nguyên tắc, phương pháp định giá, quy chuẩn và biến động giá đất thị trường để xây dựng bảng giá đất. Điều này giúp bảng giá đất tiệm cận giá thị trường nhưng cũng tăng áp lực công việc cho địa phương.
Luật Đất đai 2024 đã loại bỏ “khung giá đất” quy định trong Điều 113 của Luật Đất đai 2013. Theo quy định trước, chính phủ ban hành khung giá đất định kỳ 5 năm một lần cho từng loại đất và từng vùng. Nếu giá đất trên thị trường tăng hoặc giảm hơn 20% so với khung giá, khung giá sẽ được điều chỉnh.
Cụ thể, theo Điều 113 Luật Đất đai 2013, Chính phủ ban hành khung giá đất định kỳ 5 năm một lần cho từng loại đất và từng vùng, là cơ sở để các tỉnh, thành phố xây dựng và công bố bảng giá đất địa phương. Nếu giá đất trên thị trường tăng hoặc giảm hơn 20% so với khung giá, khung giá sẽ được điều chỉnh.
Quy định này được Luật Đất đai 2024 thay thế bằng bảng giá đất hàng năm, áp dụng cho các trường hợp:
Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất; Tính tiền thuê đất hàng năm (trừ trường hợp đấu giá); Tính thuế sử dụng đất và thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; Tính lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai và tiền xử phạt vi phạm hành chính; Tính tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại; Tính tiền sử dụng đất khi công nhận quyền sử dụng đất hoặc đất thuê trả tiền một lần cho cả thời gian thuê; Tính giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất đã đầu tư hạ tầng kỹ thuật; Tính tiền sử dụng đất khi giao đất không qua đấu giá; Tính tiền sử dụng đất khi bán nhà thuộc sở hữu nhà nước cho người thuê.
Bảng giá đất sẽ được xây dựng hàng năm theo khu vực, vị trí và được UBND cấp tỉnh xây dựng, trình HĐND quyết định và công bố từ ngày 01/01/2026. Cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh có trách nhiệm điều chỉnh bảng giá đất hàng năm hoặc khi cần thiết.
Luật này cũng quy định 4 phương pháp định giá đất như sau:
So sánh: Dựa trên giá các thửa đất tương đồng đã chuyển nhượng trên thị trường.
Thu nhập: Dựa trên thu nhập ròng bình quân chia cho lãi suất tiết kiệm.
Thặng dư: Dựa trên tổng doanh thu ước tính trừ tổng chi phí phát triển ước tính.
Hệ số điều chỉnh giá đất: Giá đất trong bảng giá đất nhân với hệ số điều chỉnh giá đất.
Định giá đất phải tuân thủ nguyên tắc thị trường, đúng phương pháp, công khai, minh bạch và đảm bảo tính độc lập trong các khâu xác định, thẩm định và quyết định giá đất.
Bản tin này chỉ nhằm mục đích thông tin về những quy định pháp luật mới ban hành, không dùng để tư vấn hay áp dụng cho những trường hợp cụ thể.
Bizlawyer hân hạnh được đồng hành cùng Quý Bạn đọc!
12 nhóm đối tượng được hưởng chính sách về Nhà ở xã hội
So với Luật Nhà ở 2014, Luật Nhà ở 2023 bổ sung thêm 2 nhóm đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về xã hội là Hộ gia đình nghèo, cận nghèo tại khu vực đô thị và Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong khu công nghiệp, nâng tổng số nhóm đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội lên con số 12, bao gồm:
– Người có công với cách mạng, thân nhân liệt sĩ thuộc trường hợp được hỗ trợ cải thiện nhà ở theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng;
– Hộ gia đình nghèo, hộ cận nghèo tại khu vực nông thôn;
– Hộ gia đình nghèo, cận nghèo tại khu vực nông thôn thuộc vùng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, biến đổi khí hậu;
– Hộ gia đình nghèo, hộ cận nghèo tại khu vực đô thị;
– Người thu nhập thấp tại khu vực đô thị;
– Công nhân, lao động đang làm việc tại doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong và ngoài khu công nghiệp;
– Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan thuộc lực lượng vũ trang, công nhân công an, công chức, công nhân và viên chức quốc phòng đang phục vụ tại ngũ; người làm công tác cơ yếu, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu hưởng lương từ ngân sách nhà nước đang công tác;
– Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức;
– Đối tượng đã trả lại nhà ở công vụ theo quy định tại khoản 4 Điều 125 của Luật Nhà ở 2023, trừ trường hợp bị thu hồi nhà ở công vụ do vi phạm quy định của Luật này;
– Hộ gia đình, cá nhân thuộc trường hợp bị thu hồi đất và phải giải tỏa, phá dỡ nhà ở theo quy định của pháp luật mà chưa được Nhà nước bồi thường bằng nhà ở, đất ở;
– Học sinh, sinh viên đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng, dạy nghề, trường chuyên biệt theo quy định của pháp luật; học sinh trường dân tộc nội trú công lập;
– Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong khu công nghiệp.
Ngoài ra, để được hưởng chính sách xã hội, những cá nhân, tổ chức thuộc nhóm đối tượng nêu trên còn phải đáp ứng một số điều kiện nhất định như chưa có nhà ở thuộc sở hữu của mình nơi có dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội đó; chưa được mua hoặc thuê mua nhà ở xã hội; chưa được hưởng chính sách hỗ trợ nhà ở dưới mọi hình thức hoặc phải đáp ứng các điều kiện về thu nhập theo quy định của pháp luật.
Lược bỏ đơn vị quản lý khỏi danh sách được mua lại nhà ở xã hội trong thời hạn 5 năm đầu
Về nguyên tắc bán, cho thuê mua, cho thuê nhà ở xã hội, Luật Nhà ở 2023 quy định bên mua, bên thuê mua nhà ở xã hội không được bán lại nhà trong thời hạn tối thiểu 5 năm, kể từ thời điểm thanh toán hết tiền thuê mua, tiền mua nhà ở. Nếu có nhu cầu bán nhà ở trong thời gian này thì bên mua, thuê mua chỉ được bán lại cho chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội hoặc bán lại cho đối tượng thuộc trường hợp được mua nhà ở xã hội với giá bán tối đa bằng giá bán nhà ở xã hội này trong hợp đồng mua bán với chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Việc nộp thuế thu nhập cá nhân thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế.
So với Luật Nhà ở 2014, Luật Nhà ở 2023 đã lược bỏ đối tượng được mua lại nhà ở xã hội trong thời hạn 5 năm đầu từ khi bên mua hoàn thành nghĩa vụ thanh toán tiền là đơn vị quản lý nhà ở xã hội. Quy định mới này góp phần đơn giản hóa thủ tục bán lại nhà ở xã hội khi có nhu cầu và tăng thêm tính chủ động cho bên bán trong việc lựa chọn đối tượng mua lại nhà ở xã hội.
Luật Nhà ở năm 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 8 năm 2024.
Bản tin này chỉ nhằm mục đích thông tin về những quy định pháp luật mới ban hành, không dùng để tư vấn hay áp dụng cho những trường hợp cụ thể.
Bizlawyer hân hạnh được đồng hành cùng Quý Bạn đọc!
Vấn đề về thời hạn sử dụng nhà chung cư được quy định cụ thể tại Điều 58 Luật Nhà ở 2023 như sau:
Thời hạn sử dụng nhà chung cư được xác định dựa trên hồ sơ thiết kế, thời gian sử dụng thực tế nhà chung cư theo kết luận kiểm định của cơ quan có thẩm quyền và được ghi rõ trong văn bản thẩm định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về xây dựng. Thời hạn này được xác định từ khi nghiệm thu nhà chung cư đưa vào sử dụng.
Khi nhà chung cư hết thời hạn sử dụng theo hồ sơ thiết kế hoặc chưa hết thời hạn sử dụng theo hồ sơ thiết kế nhưng bị hư hỏng, có nguy cơ sập đổ, không bảo đảm an toàn cho chủ sở hữu, người sử dụng nhà chung cư thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải chỉ đạo thực hiện việc kiểm định, đánh giá chất lượng công trình nhà chung cư theo quy định tại Điều 61 Luật Nhà ở 2023.
Việc công bố nhà chung cư hết thời hạn sử dụng được thực hiện theo quy định của Luật Nhà ở 2023 và pháp luật về xây dựng.
So với Luật Nhà ở 2014, Luật Nhà ở 2023 đã bỏ quy định về thời hạn sở hữu và chỉ quy định về thời hạn sử dụng nhà chung cư. Khi nhà chung cư hết thời hạn sử dụng, có nguy cơ sập đổ phải phá dỡ, thì giá trị nhà ở không còn nhưng giá trị quyền sử dụng đất ở ổn định lâu dài và người dân vẫn còn đó, và làm căn cứ để được bồi thường.
Luật Nhà ở năm 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 8 năm 2024.
Bản tin này chỉ nhằm mục đích thông tin về những quy định pháp luật mới ban hành, không dùng để tư vấn hay áp dụng cho những trường hợp cụ thể.
Bizlawyer hân hạnh được đồng hành cùng Quý Bạn đọc!
Từ ngày 01/8/2024, Luật Nhà ở 2023 chính thức có hiệu lực. So với Luật Nhà ở 2014, một trong những quy định mới được nhiều người quan tâm là quy định về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu Nhà ở (Sổ hồng) cho căn hộ thuộc nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ của cá nhân (Căn hộ chung cư mini). Quy định này mở ra nút thắt về pháp lý để nhiều người, đặc biệt là những cặp vợ chồng trẻ và người có thu nhập thấp, được sở hữu căn nhà cho riêng mình với giá chỉ bằng một nửa so với những căn hộ thương mại thông thường.
Theo đó, để được xem xét cấp sổ hồng, căn hộ chung cư mini cần phải đáp ứng các điều kiện sau:
Điều kiện về xây dựng: Căn hộ chung cư mini phải được xây dựng đáp ứng theo yêu cầu xây dựng nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ của cá nhân theo hướng dẫn tại Công văn số 4157/BXD-QLN ngày 15/9/2023 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng;
Điều kiện về phòng cháy chữa cháy: Căn hộ mini phải đáp ứng yêu cầu về phòng cháy, chữa cháy theo quy định của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy đsối với nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ của cá nhân và phải đảm bảo đường giao thông để phương tiện chữa cháy thực hiện nhiệm vụ chữa cháy tại nơi có nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ của cá nhân
Đối với trách nhiệm của cá nhân trong phát triển nhà ở: Chủ sở hữu căn hộ chung cư mini cần tuân thủ các nghĩa vụ như sau: (1) Tuân thủ quy định của pháp luật về xây dựng trong xây dựng, cải tạo nhà ở; (2) Tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường trong quá trình xây dựng, cải tạo nhà ở; (3) Bảo đảm an toàn cho người và tài sản của chủ sở hữu, người sử dụng công trình xây dựng liền kề trong quá trình xây dựng, cải tạo nhà ở. Trường hợp gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật và các trách nhiệm khác trong phát triển nhà ở theo quy định của pháp luật.
Luật Nhà ở năm 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 8 năm 2024.
Bản tin này chỉ nhằm mục đích thông tin về những quy định pháp luật mới ban hành, không dùng để tư vấn hay áp dụng cho những trường hợp cụ thể.
Bizlawyer hân hạnh được đồng hành cùng Quý Bạn đọc!
Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023 đặt ra những điều kiện khắt khe đối với việc hành nghề môi giới bất động sản, trong đó có việc chấm dứt hoạt động môi giới bất động sản tự do và buộc cá nhân hoạt động trong lĩnh vực này phải hoạt động cho doanh nghiệp, hưởng thù lao, hoa hồng từ doanh nghiệp.
Phải thành lập doanh nghiệp hành nghề môi giới bất động sản
Điều 61 Luật Kinh doanh bất động sản 2023 quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải thành lập doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bất động sản và đáp ứng các điều kiện sau: Có quy chế hoạt động dịch vụ; Có cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu hoạt động; Có tối thiểu 01 cá nhân có chứng chỉ môi giới bất động sản và Phải gửi thông tin doanh nghiệp tới cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bất động sản cấp tỉnh nơi thành lập doanh nghiệp để phục vụ việc quản lý trước khi được hoạt động.
Đôi với cá nhân hành nghề môi giới bất động sản, cần đáp ứng 02 tiêu chí sau, đó là có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản và phải hành nghề trong một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản hoặc một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản.
So với các quy định tại Mục 2 Chương VII Luật Kinh doanh bất động sản 2014, Luật Kinh doanh bất động sản 2023 đã bổ sung thêm hàng loạt quy định liên quan tới điều kiện hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản cũng như bãi bỏ quy định cho phép cá nhân hành nghề môi giới bất động sản tự do.
Quy định này được kỳ vọng sẽ siết chặt việc quản lý đối với “cò đất”, đảm bảo trật tự tại các dự án cũng như đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của những người có nhu cầu mua, thuê mua bất động sản tại các dự án.
Không được nhận “hoa hồng” môi giới bằng tiền mặt:
Khoản 2, Điều 48 Luật Kinh doanh bất động sản 2023 quy định chủ đầu tư dự án, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, dịch vụ bất động sản nhận tiền thanh toán theo hợp đồng kinh doanh bất động sản, hợp đồng kinh doanh dịch vụ bất động sản từ khách hàng thông qua tài khoản mở tại ngân hàng hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Khoản 1, Điều 63 Luật Kinh doanh bất động sản 2023 quy định cá nhân hành nghề môi giới bất động sản được hưởng thù lao, hoa hồng từ doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản hoặc môi giới bất động sản.
Như vậy, có thể thấy mọi thù lao, hoa hồng môi giới bất động sản của người hành nghề môi giới theo Luật mới sẽ phải nhận qua doanh nghiệp và thông qua hình thức chuyển khoản, không được nhận bằng tiền mặt.
Luật Kinh doanh bất động sản 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 8 năm 2024.
Bản tin này chỉ nhằm mục đích thông tin về những quy định pháp luật mới ban hành, không dùng để tư vấn hay áp dụng cho những trường hợp cụ thể.
Bizlawyer hân hạnh được đồng hành cùng Quý Bạn đọc!
Luật Kinh doanh bất động sản 2023 đặt ra những quy định siết chặt quản lý các giao dịch bất động sản, trong đó có thể kể tới quy định về việc các giao dịch này phải thanh toán thông qua tài khoản mở tại các tổ chức tín dụng.
Chấm dứt giao dịch bất động sản bằng tiền mặt
Theo Điều 48 Luật Kinh doanh bất động sản 2023, việc thanh toán trong giao dịch bất động sản, dự án bất động sản do các bên thỏa thuận trong hợp đồng và tuân thủ quy định của pháp luật. Chủ đầu tư, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ bất động sản nhận tiền thanh toán theo hợp đồng kinh doanh bất động sản, hợp đồng kinh doanh dịch vụ bất động sản từ khách hàng thông qua tài khoản mở tại tổ chức tín dụng trong nước hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Trước đó, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định việc thanh toán trong giao dịch bất động sản do các bên thỏa thuận trong hợp đồng và phải tuân thủ quy định của pháp luật về thanh toán.
Theo quy định mới, chủ đầu tư dự án, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bất động sản phải nhận tiền thanh toán thông qua tài khoản ngân hàng. Đối với các trường hợp cá nhân kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ thì không bắt buộc phải thành lập doanh nghiệp và không bắt buộc phải nhận thanh toán thông qua ngân hàng.
Luật Kinh doanh bất động sản 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 8 năm 2024.
Bản tin này chỉ nhằm mục đích thông tin về những quy định pháp luật mới ban hành, không dùng để tư vấn hay áp dụng cho những trường hợp cụ thể.
Bizlawyer hân hạnh được đồng hành cùng Quý Bạn đọc!
Hạn mức đặt cọc nhà ở hình thành trong tương lai
Theo khoản 5 Điều 23 Luật Kinh doanh bất động sản 2023, chủ đầu tư dự án bất động sản chỉ được thu tiền đặt cọc không quá 5% giá bán, cho thuê mua đối với nhà ở, công trình xây dựng đã đủ điều kiện kinh doanh. Thỏa thuận đặt cọc phải ghi rõ giá bán, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng và phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng.
Hiện nay, Luật Kinh doanh Bất động sản 2014 không quy định cụ thể về hạn mức đặt cọc mà cho phép các bên tự quyết định dựa trên sự thỏa thuận. Do đó, việc Luật Kinh doanh bất động sản 2023 đưa ra hạn mức 5% là quy định mới được nhiều người kỳ vọng sẽ bảo vệ quyền lợi của người mua nhà, hạn chế những rủi ro pháp lý nhất định từ việc đặt cọc trước như trì hoãn thực hiện nghĩa vụ của chủ đầu tư.
Quy định mới về lộ trình thanh toán bất động sản hình thành trong tương lai
Một điểm mới được kỳ vọng sẽ bảo vệ quyền lợi của người mua nhà được quy định tại Luật Kinh doanh bất động sản 2023 là sự thay đổi về lộ trình thanh toán đối với việc thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai.
Cụ thể, theo Khoản 2 Điều 25 Luật Kinh doanh bất động sản 2023, hạn mức thanh toán lần đầu đối với việc thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình hình thành trong tương lai là 30%, bao gồm cả tiền đặt cọc.
Đối với những lần thanh toán tiếp theo, việc thanh toán phải phù hợp với tiến độ xây dựng tới khi bàn giao sản phẩm và phải đảm bảo tổng số tiền thanh toán trước cho bên cho thuê mua không quá 50% giá trị hợp đồng thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng. Số tiền còn lại được tính thành tiền thuê để trả cho bên cho thuê mua trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận của hợp đồng.
So với Luật Kinh doanh bất động sản 2014, việc thanh toán trước khi mua bán, thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai đã được điều chỉnh, giảm từ mức 70% xuống còn 50% giá trị hợp đồng.
Quy định mới này được kỳ vọng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người thuê mua, tránh những rủi ro về tài chính và pháp lý trong việc đặt cọc và mua bán nhà ở hình thành trong tương lai.
Luật Kinh doanh bất động sản 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 8 năm 2024.
Bản tin này chỉ nhằm mục đích thông tin về những quy định pháp luật mới ban hành, không dùng để tư vấn hay áp dụng cho những trường hợp cụ thể.
Bizlawyer hân hạnh được đồng hành cùng Quý Bạn đọc!
Chế tài xử lý ra sao?
Theo dõi sự việc, luật sư Võ Nguyễn Bảo Trâm (Phó Giám đốc Công ty Luật Bizlawyer & Partners) cho biết theo quy định của pháp luật, mọi công dân có quyền bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Mọi hành vi xâm hại trái pháp luật, gây tổn hại nghiêm trọng tới danh dự, nhân phẩm của người khác sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 8 Luật An ninh mạng 2018 và Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ, người sử dụng mạng xã hội bị nghiêm cấm thực hiện hành vi thông tin sai sự thật, xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác và phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin do mình lưu trữ, cung cấp, truyền đưa trên mạng xã hội. Trong trường hợp vi phạm các nguyên tắc về sử dụng mạng xã hội, tùy thuộc mức độ và tính chất nghiêm trọng của hành vi, người vi phạm có thể bị áp dụng các chế tài khác nhau theo quy định của pháp luật.
Về chế tài hành chính, khoản 1 Điều 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định mức phạt đối với tổ chức có hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân trên mạng xã hội là phạt tiền 10-20 triệu đồng. Đối với cá nhân, mức phạt bằng 1/2 khung hình phạt trên, tức 5-10 triệu đồng.
“Đối với các tổ chức, cá nhân có danh dự, uy tín bị xâm phạm mà cụ thể có thể nhắc tới là chị D. và Công ty Samsung, nếu có đủ chứng cứ chứng minh hành vi lợi dụng mạng xã hội của người khác để lan truyền thông tin sai sự thật, tổ chức, cá nhân có quyền làm đơn trình báo, tường trình sự việc tới các cơ quan bảo vệ pháp luật nhằm yêu cầu xác minh, giải quyết, xử lý nghiêm các cá nhân vi phạm.
Dưới góc độ hình sự, nếu cơ quan công an xác định hành vi có dấu hiệu nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự người khác; đã gây thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên hoặc gây dư luận xấu, làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân, việc xử lý hình sự về tội Vu khống (Điều 156) hoặc tội Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 288) có thể được xem xét, đánh giá”, luật sư Trâm bình luận.
Đối với hành vi truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, trách nhiệm hình sự sẽ được đề cập nếu thuộc các trường hợp như văn hóa phẩm là dữ liệu được số hóa có dung lượng 1GB trở lên; là ảnh có số lượng từ 100 ảnh trở lên; Sách in, báo in hoặc vật phẩm khác có số lượng từ 50 đơn vị trở lên hay phổ biến cho từ 10 người trở lên. Theo Điều 326 Bộ luật Hình sự 2015, mức phạt cơ bản của hành vi này là phạt tiền 10-100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Bồi thường dân sự như thế nào?
Về trách nhiệm dân sự, các cá nhân đăng tải thông tin sai sự thật còn có trách nhiệm bồi thường cho chị D. và Samsung thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Căn cứ Điều 592 Bộ luật Dân sự 2015, thiệt hại do danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm bao gồm Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút và Thiệt hại khác do luật quy định.
Tuy nhiên, để yêu cầu các cá nhân bồi thường, cá nhân, tổ chức có quyền lợi bị xâm phạm cần cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh cho những thiệt hại đã xảy ra bởi hành vi vi phạm pháp luật nêu trên.
Đồng thời, họ có thể yêu cầu các cá nhân, các trang tin, hội nhóm đăng sai sự thật xóa, gỡ bỏ các thông tin sai sự thật trên không gian mạng và đăng báo xin lỗi, cải chính công khai những nội dung này nhằm khôi phục danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại.
Về trách nhiệm pháp lý, ngoài cá nhân đăng bài, cơ quan chức năng cũng sẽ xem xét trách nhiệm của quản trị viên các hội nhóm trong việc quản lý, kiểm duyệt nội dung thông tin. Trên thực tế, đã xảy ra trường hợp quản trị viên của diễn đàn bị khởi tố vì phê duyệt đăng tải nội dung sai sự thật. Do đó, quản trị viên của các hội nhóm có thông tin sai sự thật hoàn toàn có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp này.