Nhiều ngân hàng tăng mạnh lãi suất huy động
Với mong muốn bổ sung thêm nguồn vốn trung, dài hạn để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh cuối năm, đồng thời giảm...
Bùng nổ nhượng quyền thương hiệu vào Việt Nam
Hoạt động nhượng quyền đang được giới kinh doanh vận dụng để đưa các thương hiệu nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Ngoài lĩnh...
6 ngành kinh tế phát triển mũi nhọn khu vực miền Trung
Có 6 lĩnh vực kinh tế biển, ven biển đang được các tỉnh miền Trung tập trung phát triển và đã đạt được những kết...
91.9% doanh nghiệp lạc quan về hoạt động sản xuất 6 tháng cuối năm
Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tỷ lệ doanh nghiệp dự báo về khối lượng sản xuất khả...
Việt Nam chuyển dần từ nhập siêu sang xuất siêu với CPTPP
Với hầu hết các hiệp định thương mại (FTA) đã ký, Việt Nam thường nhập siêu, thì nay, khi thực hiện CPTTP, trong 7 tháng...
Giải đáp pháp luật
Đăng ký phương pháp tính thuế GTGT theo quy định mới của Thông tư 93/2017/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 05/11/2017
Trả lời
Ngày 19/9/2017, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 93/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Khoản 3, Khoản 4 Điều 12 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 (đã được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014) và bãi bỏ Khoản 7 Điều 11 Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ Tài chính để cải cách thủ tục hành chính trong việc đăng ký và chuyển đổi phương pháp tính thuế GTGT nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Thông tư số 93/2017/TT-BTC có hiệu lực ngày 05/11/2017.
Các Doanh nghiệp cần lưu ý thực hiện những nội dung mới của Thông tư số 93/2017/TT-BTC ngày 19/9/2017 của Bộ Tài chính, cụ thể như sau:
 
1. Kể từ ngày 05/11/2017 thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 1 Thông tư số 93/2017/TT-BTC thì các doanh nghiệp, hợp tác xã khi thực hiện đăng ký phương pháp tính thuế GTGT với cơ quan thuế sẽ không cần phải nộp Mẫu 06/GTGT để đăng ký áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ đối với “cơ sở kinh doanh mới thành lập và cơ sở kinh doanh đang hoạt động có doanh thu chịu thuế GTGT dưới một tỷ đồng” như trước đây.
 
2. Bỏ hướng dẫn nộp Mẫu 06/GTGT khi chuyển đổi phương pháp tính thuế GTGT.
Trước đây, theo quy định tại khoản 7 Điều 11 Thông tư 156/2013/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Quản lý thuế; Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 của Chính phủ thì: 
“Người nộp thuế đang áp dụng tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp, nếu đáp ứng điều kiện tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ theo quy định của pháp luật về thuế GTGT; hoặc người nộp thuế đang áp dụng tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ chuyển sang phương pháp trực tiếp thì gửi văn bản thông báo đến cơ quan thuế quản lý trực tiếp về việc chuyển đổi phương pháp tính thuế giá trị gia tăng theo mẫu số 06/GTGT ban hành kèm theo Thông tư này.
           Trường hợp người nộp thuế từ 01/01/2014 thuộc đối tượng được tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ theo quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng thì gửi văn bản thông báo đến cơ quan thuế quản lý trực tiếp về việc áp dụng phương pháp tính thuế giá trị gia tăng theo mẫu số 06/GTGT ban hành kèm theo Thông tư này.
           Người nộp thuế phải gửi Thông báo về việc áp dụng phương pháp tính thuế tới cơ quan thuế quản lý trực tiếp trước ngày 20 tháng 12 của năm trước liền kề năm người nộp thuế thực hiện phương pháp tính thuế mới hoặc năm người nộp thuế tự nguyện áp dụng theo phương pháp khấu trừ.”
Tuy nhiên, hiện nay theo hướng dẫn tại Điều 2 của Thông tư 93/2017/TT-BTC thì kể từ ngày 05/11/2017 quy định nêu trên đã được bãi bỏ.
 
3. Đồng thời Thông tư số 93/2017/TT-BTC cũng bổ sung quy định hướng dẫn Phương pháp tính thuế GTGT của cơ sở kinh doanh xác định theo Hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng hướng dẫn tại Điều 11 Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ Tài chính (đã được sửa đổi, bổ sung tại Điều 1 Thông tư số 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014 và Điều 2 Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/2/2015 của Bộ Tài chính).
Như vậy, kể từ ngày 05/11/2017 khi Thông tư số 93/2017/TT-BTC có hiệu lực thì việc xác định phương pháp tính thuế GTGT căn cứ theo Hồ sơ khai thuế GTGT do cơ sở kinh doanh gửi đến cơ quan thuế, cụ thể:
Đối với cơ sở kinh doanh đăng ký áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì gửi Tờ khai thuế GTGT Mẫu số 01/GTGT, 02/GTGT đến cơ quan thuế.
Đối với cơ sở kinh doanh đăng ký áp dụng phương pháp trực tiếp thì gửi Tờ khai thuế GTGT Mẫu số 03/GTGT, 04/GTGT đến cơ quan thuế.
(Tờ khai thuế GTGT Mẫu số 01/GTGT, 02/GTGT, 03/GTGT và 04/GTGT ban hành kèm theo Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ Tài chính – đã được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014 và Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/2/2015 của Bộ Tài chính).
 
Quyền của người lao động theo pháp luật pháp luật Việt Nam
Trả lời

Quyền của người lao động được coi là một trong những quyền cơ bản nhất trong phạm trù quyền con người mà các quốc gia trong đó có Việt Nam đã ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế nói chung và trong hệ thống pháp luật của từng nước nói riêng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động ngày càng được coi trọng trên cơ sở coi người lao động là trực tiếp làm ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ trong thương mại quốc tế nên họ phải là người được hưởng lợi, được chia sẻ thành quả của quá trình này, họ phải được bảo đảm các quyền, lợi ích và các điều kiện lao động cơ bản.

Về cơ bản, pháp luật Việt Nam đã phù hợp với quy định của nhiều Điều ước quốc tế về quyền của người lao động. Các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước tới nay, Bộ luật Lao động cùng các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật liên quan đều ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và các quyền cơ bản khác của người lao động, chẳng hạn như: Điều 5 Bộ luật Lao động 2012 quy định rằng: “Làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử”. Cũng theo quy định của pháp luật thì người lao động là người đủ 15 tuổi trở lên có khả năng lao động. Thời gian làm việc của người lao động không quá 8 giờ trong một ngày, 48 giờ trong một tuần. Tuy nhiên, người lao động và người sử dụng lao động có thể thỏa thuận làm thêm giờ nhưng không được quá 4 giờ trong một ngày và 200 giờ làm việc trong một năm. Để đảm bảo quyền của người lao động cũng như quyền của người sử dụng lao động, pháp luật cũng có các quy định về điều kiện lao động, chế độ tiền lương… Người lao động được trả lương theo thỏa thuận được ghi trong Hợp đồng lao động, mức lương mà người lao động được hưởng không thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định trong từng thời điểm cụ thể. Ngoài ra, người lao động và người sử dụng lao động có thể thỏa thuận làm thêm giờ và lương của thời gian làm thêm giờ ít nhất bằng 150% của giờ làm việc trong ngày bình thường. Người sử dụng lao động có nghĩa vụ trang bị đầy đủ phương tiện bảo hộ lao động, bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện lao động cho người lao động.

Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng có quy định xử lý nhiều hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực lao động, chẳng hạn như tội sa thải người lao động trái pháp luật (Điều 162); Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới ở nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực lao động (Điều 165); Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216); Tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người (Điều 295); Tội cưỡng bức lao động (Điều 297)… Những quy định này góp phần tăng cường, bảo đảm tốt hơn quyền của người lao động tại Việt Nam, phù hợp với các tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế về quyền của người lao động.

Đối với những nội dung liên quan đến xóa bỏ lao động cưỡng bức, lao động trẻ em, xóa bỏ phân biệt đối xử trong lao động, Việt Nam đã và đang triển khai một số chương trình hành động quốc gia để thực thi các tiêu chuẩn trên trong thực tiễn. Để tương thích với các tiêu chuẩn của ILO cũng như để bảo đảm tốt hơn các quyền cơ bản của người lao động, Việt Nam khẳng định sẽ tiếp tục hoàn thiện luật pháp và các cơ chế liên quan như: áp dụng chế tài hình sự đối với hành vi sử dụng lao động cưỡng bức hoặc lao động bắt buộc; cấm phân biệt đối xử về mọi khía cạnh của việc làm và nghề nghiệp; bảo đảm quyền tiếp cận việc làm bình đẳng của phụ nữ, bãi bỏ quy định cấm phụ nữ tham gia vào một số ngành nghề, công việc cụ thể…

Tôn chỉ, mục đích hoạt động của tổ chức của người lao động phải bảo đảm theo đúng các tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế là để đại diện, bảo vệ cho các quyền và lợi ích của người lao động tại doanh nghiệp mà họ làm việc thông qua các hình thức tương tác được quy định trong pháp luật bao gồm đối thoại, thương lượng tập thể, đình công và các hành động tập thể khác trong quan hệ lao động. Các tổ chức của người lao động không được phép tiến hành bất cứ hoạt động nào có khả năng xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội cũng như không được tham gia bất cứ hoạt động nào ngoài tôn chỉ mục đích đã đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Xây dựng mô hình pháp luật về lao động phù hợp ở Việt Nam
Trả lời

Từ ngày Bộ luật Lao động (BLLĐ) có hiệu lực đến nay (01/01/1995), một môi trường pháp lý mới về lao động đã được thiết lập. Hệ thống các văn bản pháp luật lao động ngày càng được bổ sung, hoàn thiện đã góp phần quan trọng vào việc định hướng chính sách, hướng dẫn hành động và từng bước thiết lập kỷ cương trên thị trường lao động cũng như trong hoạt động quản lý nhân lực, đồng thời là những căn cứ pháp lý chủ yếu để áp dụng giải quyết các tranh chấp lao động, những phát sinh trong quá trình lao động…

Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển hệ thống pháp luật về lao động, có thể thấy rằng, BLLĐ cũng như nhiều bộ luật khác là sản phẩm của quan niệm truyền thống coi pháp điển hóa là một hoạt động lập pháp với kết quả cuối cùng là một VBQPPL mới được ban hành có mức độ tổng hợp, khái quát cao thường được gọi là các Bộ luật. Đây đã từng trở thành một xu hướng ở nước ta trong thập niên cuối của thế kỷ trước. Việc pháp điển nhiều quy phạm riêng lẻ, lộn xộn trong nhiều văn bản quy phạm có giá trị pháp lý thấp vào một đạo luật của Quốc hội, đặc biệt lại là một Bộ luật với những phần, chương, mục đồ sộ nhằm mục đích xây dựng được một hệ thống pháp luật thống nhất, khoa học và ổn định. Về phương án lựa chọn ban hành bộ luật hay đạo luật chuyên ngành, qua nghiên cứu thấy rằng, chúng ta không thể phủ nhận giá trị lớn mà BLLĐ đem lại trong việc tạo ra một hệ thống các khái niệm, thuật ngữ, những nguyên tắc chung trong QHLĐ mang tính thống nhất, ổn định và là tiêu chuẩn cho tất cả các đạo luật chuyên ngành về QHLĐ. Đồng thời, cũng thấy rõ việc ban hành các luật chuyên ngành về từng lĩnh vực của QHLĐ lại đáp ứng được yêu cầu về tính chuyên sâu, điều chỉnh cụ thể, chi tiết, tránh tình trạng luật khung, luật ống, tốn kém thời gian cho việc xây dựng, dự thảo như Bộ luật đồ sộ. Nghĩa là dù tồn tại dưới hình thức Bộ luật hay luật, thì những VBQPPL này đều có giá trị nhất định đối với việc điều chỉnh các quan hệ xã hội về lao động.

Hiện nay, việc tiếp tục kết hợp Bộ luật tổng hợp với các đạo luật chuyên ngành đang là cần thiết. Bởi lẽ, với vai trò là một Bộ luật chung, BLLĐ sẽ thiết lập và duy trì một hệ thống khái niệm, thuật ngữ, những nguyên tắc chung đặt nền móng cho việc xây dựng các đạo luật chuyên ngành trong trường hợp cần thiết. Các đạo luật chuyên ngành được xây dựng đáp ứng nhu cầu quản lý Nhà nước, quản lý xã hội trên cơ sở những giá trị chung nhất mà BLLĐ đã khẳng định, nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật về lao động, đồng thời mỗi đạo luật chuyên ngành cũng có thể được xây dựng ngắn gọn, cô đọng, cụ thể, chi tiết hơn mà không phải nhắc lại, dẫn chiếu lại những nội dung đã được quy định trong BLLĐ. Để rút ngắn quá trình xây dựng văn bản luật, có thể xem xét áp dụng phương pháp một luật sửa nhiều luật đối với những nội dung có liên quan chặt chẽ đến nhau thuộc các văn bản luật khác nhau mà việc sửa đổi nội dung này sẽ dẫn đến thay đổi nội dung tương ứng ở văn bản khác. Vì vậy, chúng tôi tán thành với quan điểm trước mắt cần sửa đổi cơ bản BLLĐ hiện hành nhằm điều chỉnh các nội dung chung pháp luật về lao động và QHLĐ, đồng thời nghiên cứu xem xét khả năng ban hành một số đạo luật chuyên ngành để quy định chuyên sâu một số vấn đề như tiền lương, việc làm, vệ sinh, an toàn lao động… Tuy nhiên, việc ban hành các văn bản này phải phù hợp với xu thế chung là cần phải quy định chi tiết, cụ thể tối đa; giảm dần việc ban hành thông tư, nghị định.

Về dài hạn, cần nghiên cứu xây dựng mô hình Bộ pháp điển về từng lĩnh vực như đã được xác định tại Luật Ban hành VBQPPL năm 2015. Khác với quan niệm truyền thống coi pháp điển hóa là một hoạt động lập pháp với kết quả cuối cùng là một VBQPPL mới được ban hành có mức độ tổng hợp, khái quát cao thường được gọi là các Bộ luật, luật như đã nêu ở trên, Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 đã đặt nền móng cho một quan niệm pháp điển hóa tiếp cận hoàn toàn dưới góc độ kỹ thuật, coi pháp điển hóa không phải là việc xây dựng những bộ luật lớn mà chính là việc thu thập, tổ chức, công bố, cập nhật liên tục toàn bộ các QPPL đang có hiệu lực thi hành trong một Bộ pháp điển được sắp xếp theo chủ đề. Trên cơ sở đó, các cơ quan có trách nhiệm ở nước ta đã tiến hành thí điểm Bộ pháp điển về tổ chức, hoạt động của Quốc hội và Bộ pháp điển về quyền sở hữu trí tuệ. Theo một số chuyên gia, phương pháp tiếp cận pháp điển hóa dưới góc độ kỹ thuật sẽ giúp giải quyết một số vấn đề như: Ít tốn kém cả về thời gian, công sức và tiền của so với việc xây dựng các bộ luật lớn; Có tính khả thi so với mặt bằng trình độ làm luật chung ở thời điểm hiện nay vì ít đòi hỏi sự can thiệp, chỉ đạo của các cơ quan làm chính sách; Bảo đảm tính linh hoạt, dễ cập nhập và nhanh chóng thích nghi, phù hợp với điều kiện hạ tầng xã hội vẫn đang biến chuyển liên tục như hiện nay.

 

Quy định về mua bán nhà đất chỉ có giấy viết tay được cấp sổ đỏ
Trả lời
Từ ngày 03/03/2017, những trường hợp mua bán nhà đất chỉ có giấy viết tay trước đây cũng có thể được giải quyết cấp sổ đỏ. Đây là một trong những điểm mới của Nghị định số 01/2017/NĐ – CP sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai, có hiệu lực từ ngày 03/03/2017.
 
Một trong những điểm mới trong nghị định 01 là những quy định tháo gỡ cho các trường hợp mua bán nhà đất chỉ có giấy tờ viết tay trước đây cũng được xem xét cấp sổ đỏ. Cụ thể, nghị định quy định người dân đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho từ ngày 01/01/2008 đến trước ngày 01/07/2014 (ngày Luật đất đai 2013 có hiệu lực), có giấy tờ về quyền sử dụng đất, được cấp sổ đỏ lần đầu mà không phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất.  
 
Tương tự, trường hợp người dân đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho từ trước ngày 01/01/2008, sử dụng đất do nhận thừa kế trước ngày 01/07/2014 (không có các giấy tờ về quyền sử dụng đất) cũng được cấp sổ đỏ mà không bị buộc phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Các cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được yêu cầu người nhận chuyển nhượng phải nộp các hợp đồng, văn bản chuyển quyền sử dụng đất theo quy định.
Về thời hạn thực hiện thủ tục đăng ký, cấp sổ đỏ, Nghị định 01 cũng có những thay đổi tích cực theo hướng rút ngắn thời gian thực hiện cấp sổ đỏ. Cụ thể, thời gian thực hiện thủ tục đăng ký, cấp sổ đỏ cho cá nhân, tổ chức được quy định tối đa là 15 ngày, quy định cũ 30 ngày.
Trường hợp thực hiện đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền trên đất; xử lý hợp đồng thế chấp, góp vốn; kê biên bán đấu giá tài sản được quy định không quá 10 ngày, quy định cũ không quá 15 ngày. Việc cấp lại sổ đỏ cho các trường hợp bị mất không quá 10 ngày, quy định cũ không quá 30 ngày.
Thời gian thực hiện thủ tục đăng ký biến động do đổi tên người sử dụng đất hoặc thay đổi về hình dạng, kích thước, diện tích, số hiệu, địa chỉ thửa đất hoặc thay đổi về nghĩa vụ tài chính được rút ngắn còn 10 ngày, quy định cũ 15 ngày.
Được biết, với quy định tại Nghị định này, các trường hợp mua bán nhà đất chỉ có giấy tờ viết tay sẽ được làm thủ tục đăng ký, đề nghị cấp sổ đỏ luôn mà không cần phải làm thủ tục chuyển nhượng như trước đây.
Theo Luật đất đai 2013, người đang sử dụng đất đều có quyền đăng ký, đề nghị được cấp sổ đỏ. Tuy nhiên, theo quy định cũ, các trường hợp đã chuyển nhượng, cho tặng chỉ có giấy tờ viết tay, khi xem xét cấp sổ đỏ phải làm thêm thủ tục về chuyển nhượng.
Quy định cũ như vậy cũng phát sinh một số vướng mắc. Với những trường hợp mua bán nhà đất trước đây chỉ có giấy tờ viết tay, đôi khi có một số trường hợp không thể tìm được người đã chuyển nhượng cho mình để làm các thủ tục chuyển nhượng. Mặt khác những trường hợp khi mua bán nhà đất chỉ có giấy tờ viết tay, khi làm thủ tục đề nghị cấp sổ đỏ, dù tìm được bên chuyển nhượng cho mình nhưng cũng có trường hợp bên chuyển nhượng không hợp tác để làm thủ tục chuyển nhượng.
Có thể thấy một trong những điểm mới mấu chốt được tháo gỡ của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP là những trường hợp đó không phải làm thủ tục chuyển nhượng nữa. Chỉ cần có những giấy tờ mua bán viết tay trước đây để làm thủ tục đăng ký và đề nghị cấp sổ đỏ luôn chứ không phải làm thêm thủ tục chuyển nhượng. Còn trình tự thủ tục vẫn thực hiện như quy định trước đây. Điều này thể hiện ưu điểm rõ rệt so với các quy định cứng nhắc trước đây gây khó khăn cho một số bộ phận không nhỏ người sở hữu nhà đất ở viết tay trong quá trình chuyển nhượng cho người khác.
                                                                                                                       (Theo Xuân Long – Tuổi trẻ Online)
Thị trường bất động sản dưới tác động của nhiều chính sách lớn
Trả lời
Luật kinh doanh bất động sản 2014 chính thức có hiệu lực vào 01/07/2015 và hàng loạt các tác động của các chính sách lớn của Chính phủ như việc hạn chế tín dụng bất động sản được thực hiện theo lộ trình đến năm 2018, hay kết thúc gói vay ưu đãi 30.000 tỉ đồng cho người thu nhập thấp, công bố thông tin các dự án đang thế chấp ngân hàng biến động của xu hướng bất động sản trên thế giới đã đã có nhiều tác động mạnh tới thị trường bất động sản trong thời gian tới.
1. Siết tín dụng vào bất động sản
Giữa tháng 06/2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Thông tư 06 nhằm sửa đổi Thông tư 36 quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Theo đó, hệ số rủi ro trong kinh doanh bất động sản được nâng từ 150% lên mức 200%; tỷ lệ sử dụng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn được giảm từ 60% xuống còn 50% từ ngày 01/01/2017, và từ ngày 01/01/2018 sẽ xuống 40%.
Thông tư 06 được đánh giá là sự điều chỉnh kịp thời của NHNN khi tín dụng ngân hàng đang rót mạnh vào các dự án bất động sản, đặc biệt là hiện tượng tập trung vốn cho một số dự án lớn. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, đây đồng thời là một cú sốc lớn cho thị trường. Nó sẽ làm chi phí vốn trong kinh doanh bất động sản tăng cao hơn, các doanh nghiệp phải cân nhắc việc đầu tư. Còn người mua thì khi khó tiếp cận tín dụng hơn, họ sẽ giảm nhu cầu mua đầu tư hay có thể là cả mua để ở.
2. Kết thúc gói tín dụng ưu đãi 30.000 tỉ đồng
Gói tín dụng ưu đãi 30.000 tỉ đồng ra đời năm 2013 dành 70% hỗ trợ cho người mua nhà ở xã hội, nhà ở thương mại có giá dưới 1,05 tỉ đồng/căn và dành 30% hỗ trợ cho các dự án nhà ở xã hội đã chính thức kết thúc vào 31/12/2016. Chính sách này đã giúp giải quyết hàng tồn kho, nợ xấu, hỗ trợ người có thu nhập trung bình, có thu nhập thấp đô thị có nhà ở, và đã góp phần giúp thị trường bất động sản phục hồi và tăng trưởng trở lại kể từ cuối năm 2013 cho đến nay
Theo Hiệp hội bất động sản TPHCM (HoREA), sau 3 năm triển khai, đến hết tháng 11/2016, đã giúp khoảng 56.000 người trên cả nước tạo lập được nhà ở, và đã giải ngân được gần 30.000 tỉ đồng. Tuy nhiên, việc chấm dứt gói tín dụng ưu đãi này cũng đã có tác động tiêu cực làm cho người có thu nhập thấp đô thị khó tiếp cận nhà ở, và cũng tác động đến phân khúc thị trường nhà ở vừa túi tiền. Thị trường đang mong chờ nguồn vốn tín dụng mới, trong khi đó, theo Nghị định 100 về chính sách nhà ở xã hội, Chính phủ đã quyết định mức lãi suất cho vay mua nhà ở xã hội tại Ngân hàng Chính sách xã hội là 4,8%/năm được thực hiện đến ngày 31-12-2016, thì đến nay vẫn chưa có nguồn vốn vay ưu đãi nào được bố trí.
3. Công bố các dự án thế chấp ngân hàng
Khởi đầu từ vụ việc chung cư Harmona (quận Tân Bình, TPHCM) chậm trả nợ vay và bị ngân hàng siết nợ khiến hàng trăm cư dân rơi vào tình trạng mất nhà, dư luận từ đó đã yêu cầu cơ quan chức năng phải công bố thông tin về các dự án thế chấp ngân hàng. Giữa tháng 07/2016, Sở Tài nguyên Môi trường TPHCM đã công bố danh sách 77 dự án bất động sản đang thế chấp ngân hàng. Đây là lần đầu tiên cơ quan quản lý công khai tình trạng của các dự án để người dân nắm rõ, tránh bị lừa khi mua nhà. Ngay sau đó, Hà Nội cũng cũng tiến hành công bố danh sách dự án thế chấp tương tự TPHCM.
Việc công bố thông tin này được xem là một cú sốc lớn cho thị trường địa ốc khi nhiều dự án lớn cũng có tên trong danh sách. Các doanh nghiệp lo ngại thị trường nhà chung cư sẽ bị sụt giảm nghiêm trọng khi danh sách này được công bố. Nhiều chủ đầu tư đã phải lên tiếng giải thích cho người mua nhà vì hầu hết khách hàng ngộ nhận rằng dự án đang thế chấp tức là năng lực chủ đầu tư có vấn đề, tài sản của họ đang bị đe dọa. Một số doanh nghiệp khác phản ánh việc đã rút tài sản thế chấp nhưng vẫn có tên trong danh sách. Các chuyên gia cho rằng cần có sự phối hợp giữa các sở, ngành liên quan, nhằm công bố các dự án thế chấp đầy đủ, cập nhật và khách quan.
4. Nghiên cứu việc đánh thuế ngôi nhà thứ 2
Cuối tháng 10, Bộ Tài chính đưa ra đề xuất đánh thuế ngôi nhà nhà thứ hai trở đi đối với những người sở hữu nhiều bất động sản nhằm ngăn ngừa đầu cơ, giảm thiểu rủi ro cho thị trường bất động sản. Theo đó, từ năm 2016-2020 Bộ Tài chính sẽ xây dựng luật thuế đánh trên người sở hữu nhiều nhà ở nhằm mục đích ngăn ngừa đầu cơ nhằm giảm thiểu rủi ro trên thị trường bất động sản.
Giới chuyên gia địa ốc cho rằng, sắc thuế này sẽ phòng chống đầu cơ, giúp thị trường phát triển bền vững, tránh bong bóng, và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Trong khi một số khác nhận định việc áp thuế tại thời điểm này là không phù hợp khi thị trường đang rất cần sự hỗ trợ của chính sách sau nhiều năm trầm lắng. Tuy nhiên, việc áp dụng sắc thuế này tại khá phức tạp và cần phải xem xét nhiều khía cạnh, trong đó có cập nhật hạ tầng thông tin, giám sát, quản lý thông tin… Các chuyên gia đánh giá, nhiều khả năng năm 2017 sẽ chưa áp dụng sắc thuế này.
5. Biến động của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
Việc Mỹ có thể rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được xem là một trong những nhân tố bất định có thể ảnh hưởng sâu rộng đến thị trường bất động sản Việt Nam. Suốt năm 2016, lệch pha cung cầu trên thị trường địa ốc tại các thành phố lớn trên cả nước nghiêng hẳn về phân khúc hàng hóa cao cấp được xem là hệ quả của làn sóng đi tắt đón đầu cơ hội TPP.
Chính vì vậy, ngay khi tiếp nhận chuyển giao quyền lực từ Tổng thống Obama, Donald Trump không loại trừ khả năng Mỹ có thể rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã để ngỏ ẩn số tác động đến nhiều phân khúc thị trường bất động sản Việt Nam.
Các chuyên gia dự báo, sự vắng mặt của Mỹ trong hiệp định thương mại này sẽ ảnh hưởng tới sự chuyển dịch dòng vốn đầu tư, chuyển dịch sản xuất vào Việt Nam. Kế đến sẽ tác động trực tiếp đến thị trường bất động sản trong trung hạn và dài hạn. Trước mắt, TPP có thể làm thay đổi nguồn cầu bất động sản nhà ở cao cấp, nghỉ dưỡng, khu công nghiệp, văn phòng tại các đô thị lớn./.
                                                                                                           Theo Cao Ban – Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online
 
Thị trường Bất động sản – Bức tường thành nào ngăn cản làn gió mát lan tỏa?
Trả lời

Thị trường địa ốc đón nhận làn gió mới nhờ những tiến bộ của Luật Nhà ở 2014 về việc mở rộng hành lang pháp lý cho người nước ngoài và Việt kiều mua nhà tại Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn còn những “bức tường thành” ngăn làn gió ấy lan tỏa ra mọi ngõ ngách của thị trường.

Luật Nhà ở 2014 đã mở rộng cho người nước ngoài, Việt kiều không những được sở hữu căn hộ chung cư, mà còn có thể là nhà ở riêng lẻ thay vì trước đây, họ chỉ có thể mua chung cư. Đây là bước chuyển quan trọng để thu hút nguồn vốn ngoại cho thị trường bất động sản. Quy định này còn giải quyết các bài toán về kinh tế – xã hội khi người nước ngoài, kiều bào có cơ hội kinh doanh, đầu tư lâu dài tại Việt Nam.

Nếu người nước ngoài ở Indonesia phải có thị thực và giấy phép làm việc tại Indonesia mới được sở hữu hợp pháp nhà ở thì pháp luật Việt Nam dễ dàng hơn về điều kiện sở hữu nhà ở. Theo đó, chỉ cần nhập cảnh hợp pháp là cá nhân đã có thể mua nhà ở.

Hơn nữa, người nước ngoài có thể chuyển nhượng, bán, tặng cho, để thừa kế nhà ở của mình. Người nước ngoài, Việt kiều cũng không cần phải sinh sống tối thiểu ở Việt Nam một khoảng thời gian nhất định mới có quyền mua nhà. Luật Nhà ở 2014 không chỉ mở rộng về đối tượng, loại nhà ở được phép sở hữu, mà còn mở rộng cả về các quyền của chủ sở hữu.

Tuy nhiên, người nước ngoài bị giới hạn về số lượng nhà được phép sở hữu, thời gian sở hữu nhà và không được mua nhà ở các khu vực quốc phòng – an ninh. Nhưng nếu người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc người nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam thì được sở hữu nhà ở ổn định, lâu dài và có các quyền của chủ sở hữu nhà ở như công dân Việt Nam.

Một số “Nút thắt” cần gỡ

Vấn đề thứ nhất là một số quy định chưa rõ ràng và cụ thể về điều kiện như quy định người nước ngoài chỉ được sở hữu không quá 30% tổng số căn hộ để ở của một tòa nhà chung cư. Cụ thể, nếu là nhà ở riêng lẻ, gồm nhà biệt thự, nhà ở liền kề, nhà ở độc lập, tại một khu vực có số dân tương đương một đơn vị hành chính cấp phường, thì tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu số lượng nhà ở không quá 10% tổng số nhà ở riêng lẻ và không vượt quá 250 căn nhà. Nếu không thuộc đối tượng được phép thừa kế nhà ở tại Việt Nam hoặc sở hữu vượt quá giới hạn trên thì người nước ngoài chỉ được phép nhận giá trị căn nhà.

Vấn đề là tại thời điểm giao dịch, người nước ngoài, Việt kiều không dễ để biết được số lượng căn hộ có thể mua trong khu vực dự án, hay xác minh tính chính xác của thông tin này từ phía chủ đầu tư do các chủ đầu tư luôn cố gắng chạy đua, chào mời để bảo đảm doanh số. Đó là chưa kể có chủ đầu tư còn giấu thông tin, không đáp ứng các điều kiện luật định. Do rào cản ngôn ngữ và thiếu am hiểu luật pháp nên người mua nhà không có đủ công cụ để thẩm định pháp lý.

Hơn nữa, không đơn giản để xác định cụ thể các khu vực cần bảo đảm an ninh, quốc phòng tại từng địa phương. Các địa phương chưa có căn cứ xác định cụ thể các dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại trên địa bàn không cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở theo quy định tại Nghị định 99/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nhà ở 2014. Đây cũng là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản và người mua nhà, nhất là Việt kiều, người nước ngoài đang rất lưỡng lự tiến hành giao dịch ở một số khu vực. Về vấn đề trên, Bộ Xây dựng cũng đã có công văn đề nghị Bộ Công an, Bộ Quốc phòng sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực thi chi tiết cho người mua nhà.

Vấn đề thứ ba là các thủ tục xác minh nguồn gốc, nhân thân Việt kiều để được hưởng các quyền và nghĩa vụ như người Việt Nam khi muốn mua nhà tại Việt Nam.

Việc chứng nhận nguồn gốc người Việt do 3 cơ quan phối hợp thực hiện là: Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài và Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp cho người Việt Nam ở nước ngoài.

Thực tế, nhiều người không thể thu thập đủ các hồ sơ, thủ tục theo quy định để đáp ứng các điều kiện này do các nguyên nhân chủ quan và khách quan của lịch sử. Để tạo thuận lợi và đáp ứng các nhu cầu chính đáng của nhóm đối tượng Việt kiều này, các cơ quan chức năng liên quan cần có hướng dẫn chi tiết, mở rộng hơn.

Việc chứng minh nguồn “tiền sạch” như thế nào cũng là vấn đề cơ quan chức năng cần hướng dẫn cụ thể, chứ không thể để trống như hiện tại. Về vấn đề này, pháp luật và chính sách cần có cơ chế thuận lợi về hoạt động chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam.

Người nước ngoài khi mua nhà ở Việt Nam cũng có nhu cầu vay vốn, tiếp cận tín dụng bằng thế chấp một cách dễ dàng từ tài sản sở hữu đó. Do tính đặc thù của hoạt động ngân hàng và Bất động sản ở thị trường Việt Nam, một số ngân hàng có chính sách hỗ trợ cho người nước ngoài vay vốn mua nhà nhưng vẫn còn tâm lý e ngại. Chính phủ cũng nên mở rộng cơ chế để người nước ngoài có thể vay thế chấp để mua nhà ở, nhưng vẫn cần cân nhắc các điều kiện để đảm bảo khả năng tài chính tại Việt Nam.

Vấn đề thứ tư là việc thực hiện các thủ tục hành chính liên quan. Vẫn còn các quy định chưa cụ thể, rõ ràng dù Chính phủ và các cơ quan nhà nước đã có nhiều cố gắng trong công cuộc cải cách hành chính, cải thiện chất lượng dịch vụ công. Khi nào người nước ngoài, Việt kiều có thể tự mình tiếp cận thông tin, thủ tục một cách minh bạch, dễ dàng thì khi đó nhu cầu mới được đáp ứng trọn vẹn.

Hướng giải quyết ở đâu?

Hướng giải quyết đầu tiên phải là cơ chế phối hợp thực thi thống nhất. Các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, cũng như từ những người mua nhà là Việt kiều, người nước ngoài cần phải có sự phối hợp. Với các bất cập, khó khăn trong quá trình thực hiện chính sách, sự phản hồi 2 chiều đối sẽ giúp các cơ quan nhà nước hiểu rõ và nhìn ra các quy định cần sửa đổi cho phù hợp.

Ngoài ra, các cơ quan chức năng cần tăng cường chính sách bảo vệ quyền lợi của người mua nhà là người nước ngoài, Việt kiều như với công dân Việt Nam, đồng thời cần có những biện pháp hướng dẫn những điểm chưa rõ ràng trong các văn bản liên quan. Chẳng hạn, các Bộ liên quan cần ban hành thông tư liên tịch xác định rõ các khu vực cần đảm bảo an ninh quốc phòng, công bố thông tin, số lượng các căn hộ có thể được sở hữu… hướng dẫn thực thi Luật Nhà ở về vấn đề này. Theo đó, người mua nhà, nhất là Việt kiều, người nước ngoài có thể dễ dàng tìm hiểu và nắm được tại thời điểm quyết định giao dịch.

Cần thực hiện các cải cách thủ tục hành chính một cách nghiêm túc, triệt để. Đồng thời, tăng cường giám sát, kiểm tra các hoạt động của các cán bộ, cơ quan nhà nước. Hiện nay, nạn nhũng nhiễu, ngâm hồ sơ tại các cơ quan chức năng đã được giảm đáng kể nhờ thực hiện các thủ tục hành chính qua mạng. Trong tương lai, cần đẩy mạnh hơn các cải cách góp phần minh bạch và rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục hành chính.

Kết lại vấn đề này, đã có những chuyển biến trong hành lang pháp lý cho người nước ngoài, Việt kiều. Ở góc nhìn tích cực, cơ chế không chỉ tạo điều kiện cho người nước ngoài, Việt kiều mà còn là cả các doanh nghiệp bất động sản đầu tư vào phân khúc khách hàng này. Để thiết lập cơ chế rõ ràng để thị trường phát triển, hướng tới sự đảm bảo về cam kết với quyền sở hữu cho họ, Chính phủ cần có những bước tiến mạnh mẽ hơn. Cụ thể là cần tiến tới ban hành một Nghị định riêng hướng dẫn chi tiết Luật Nhà ở 2014 cho việc sở hữu, kinh doanh nhà của người nước ngoài và Việt kiều trong thời gian tới.

                                                                                                                           (Theo Đầu tư chứng khoán Online)

Những quy định mới của Luật Kinh doanh bất động sản 2014
Trả lời

Luật Kinh doanh bất động sản 2014 ra đời thay thế Luật Kinh doanh bất động sản 2006, trong đó đã có nhiều sửa đổi, và bổ sung những vấn đề mới đáng lưu ý và phù hợp với thực tiễn hoạt động kinh doanh bất động sản tại Việt Nam trong thời gian gần đây. Đặc biệt, Luật đã sửa đổi và bổ sung những vấn đề liên quan đến kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai, đây là một vấn đề khá mới và nổi bật của Luật Kinh doanh bất động sản 2014.

Thứ nhất, bất động sản hình thành trong tương lai được bổ sung vào các loại bất động sản được đưa vào kinh doanh. Đây là một trong những điểm mới quan trong của Luật Kinh doanh bất động sản 2014, cụ thể Điều 5 quy định: “Nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai của tổ chức cá nhân là một trong những loại bất động sản được đưa vào kinh doanh.”

Thứ hai, quy định về điều kiện của bất động sản hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh theo khoản 1 Điều 55 Luật Kinh doanh bất động sản 2014, cụ thể điều kiện là : Phải có giấy tờ về quyền sử dụng đất, hồ sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Giấy phép xây dựng đối với trường hợp phải có Giấy phép xây dựng, giấy tờ về nghiệm thu việc hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương ứng theo dự án.

Trường hợp đối với bất động sản hình thành trong tương lai là chung cư, tòa nhà hỗn hợp có mục đích để ở thì phải có biên bản nghiệm thu đã hoàn thành xong phần móng của tòa nhà đó.

Thứ ba, phải thực hiện bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai. Có thể nói đây là một trong những điểm mới nổi bật về vấn đề kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai của Luật Kinh doanh bất động sản 2014. Nội dung về bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai quy định tại Điều 57 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 như sau:

Nhà ở hình thành trong tương lai trước khi bán, cho thuê mua thì phải được sự bảo lãnh của ngân hàng có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư đối với khách hàng trong trường hợp chủ đầu tư không bàn giao nhà ở theo đúng tiến độ đã cam kết với khách hàng; danh sách ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh sẽ do ngân hàng Nhà nước công bố.

Giữa ngân hàng bảo lãnh và chủ đầu tư phải thực hiện thành lập hợp đồng bảo lãnh, và chủ đầu tư phải có trách nhiệm gửi bản sao hợp đồng bảo lãnh cho bên mua, bên thuê mua khi ký kết hợp đồng mua, thuê mua. Thời hạn của hợp đồng bảo lãnh là khi nhà ở được giao cho bên mua, bên thuê mua; Trường hợp chủ đầu tư không giao đúng nhà ở theo tiến độ cam kết, bên mua, thuê mua có yêu cầu thì bên ngân hàng bảo lãnh phải có trách nhiệm hoàn lại số tiền ứng trước và các khoản tiền khác cho khách hàng theo hợp đồng mua bán, thuê mua nhà và hợp đồng bảo lãnh.

Thứ tư, Luật Kinh doanh bất động sản 2014 cũng quy định tương đối chi tiết về việc thanh toán trong mua bán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai. Cụ thể :

Bên mua, thuê mua thực hiện thanh toán nhiều lần, lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng; việc thanh toán những lần tiếp theo phải phù hợp vào tiến độ xây dựng song không quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao nhà, công trình xây dựng; trường hợp bên bán , bên cho thuê mua là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tổng số thanh toán không quá 50% giá trị hợp đồng.

Trường hợp chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì không được thu quá 95% giá trị hợp đồng. Giá trị còn lại được thanh toán khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Có thể nói, Luật Kinh doanh bất động sản 2014 đã có nhều quy định mới và tích cực về vấn đề kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai, đây là một vấn đề khá mới và khá “nóng” đối trong hoạt động kinh doanh bất động sản trong những năm gần đây.

                                                                                                                                                                 (Sưu tầm)

Một số vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm hiện nay
Trả lời

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường cùng với hành lang pháp lý rộng mở, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển thuận lợi, tuy nhiên sự phát triển của doanh nghiệp vẫn nằm trong khuôn khổ pháp lý chịu sự quản lý của Nhà nước và sự tác động của nhiều yếu tố trong quá trình hoạt động. Một số vấn đề mà doanh nghiệp quan tâm hiện nay trong quá trình hoạt động của mình có thể nói đến là:

* Lựa chọn mô hình công ty phù hợp với định hướng, mục tiêu và tình hình thực tế.

Việc lựa chọn mô hình công ty là một việc quan trọng vì điều này thể hiện sự định hướng của người thành lập doanh nghiệp cũng như căn cứ vào tình hình thực tế của họ khi quyết định đầu tư kinh doanh. Khi lựa chọn mô hình doanh nghiệp chính là một trong những yếu tố cơ bản về xác lập quy chế pháp lý đặc thù của mô hình doanh nghiệp đó. Trong đó có các vấn đề pháp lý cơ bản, quan trọng cần lưu ý gồm: các chế độ trách nhiệm quản lý tài sản, vốn, cơ cấu bộ máy tổ chức, phân chia lợi ích trong công ty.

Điều này có thể thấy rõ như sau: Chẳng hạn, ban đầu lúc thành lập doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp thường quan tâm nhiều đến vấn đề huy động vốn, dễ dàng tham gia đấu thầu và vấn đề lợi nhuận nên hay nhận định mô hình công ty cổ phần là phù hợp. Nhưng thực tế, với tình hình thực tế lúc ban đầu đối với một doanh nghiệp, mô hình này có nhiều hạn chế so với công ty trách nhiệm hữu hạn. Bởi lẽ trong công ty cổ phần, sau ba năm thành lập, sự chuyển nhượng cổ phần diễn ra dễ dàng, việc quản lý và điều hành công ty cổ phần lại rất phức tạp do số lượng các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ động đối kháng nhau về lợi ích. Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán doanh nghiệp. Còn với mô hình trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp sẽ ổn định và có thể thay đổi loại hình kinh doanh phù hợp khi công ty đã phát triển.

* Thống nhất các thỏa thuận khi thành lâp doanh nghiệp và việc giải quyết các xung đột giữa các thành viên, cổ đông góp vốn trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.

 

Sự đổi mới của pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp thành lập và đi vào hoạt động tuy nhiên chính vì sự thuận lợi, đơn giản về mặt thủ tục đó, một số bộ phận vẫn coi việc thành lập công ty chỉ là các thỏa thuận với nhau, cùng đưa ra các ý tưởng và điều kiện kinh doanh với nhau như việc tự do thỏa thuận làm ăn nhỏ lẻ thông thường. Các thỏa thuận của các thành viên lúc này là thỏa thuận dân sự và thường sơ sài nên khi xảy ra các xung đột liên quan đến việc góp vốn, sử dụng vốn, quyền sở hữu tài sản, phân chia lợi ích… sẽ không có cơ sở để giải quyết.

Dưới góc độ pháp lý đã thành lập công ty, tức là đã trở thành tổ chức kinh tế, tham gia vào quan hệ pháp luật kinh tế, chịu sự điều chỉnh và phải tuân theo đúng pháp luật trong quá trình hoạt động. Vì vậy, các thành viên, các cổ đông góp vốn sẽ phải tìm hiểu về các điều khoản hợp tác, phương pháp hợp tác kinh doanh, nắm bắt được các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật như vậy mới có thể giải quyết khi công ty có sự cố.

Khi doanh nghiệp đi vào hoạt động và bắt đầu mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, nếu không có sự thống nhất, chặt chẽ trong việc quản lý doanh nghiệp sẽ xuất hiện các tranh chấp, xung đột giữa các thành viên, cổ đông góp vốn. Vì vậy để tránh tình trạng này xảy ra, các thành viên, cổ đông sáng lập cần có những thỏa thuận rõ ràng ngay khi thành lập doanh nghiệp và đưa vào điều lệ công ty, các nghị quyết hay biên bản thỏa thuận để đảm bảo môi trường hợp tác kinh doanh lành mạnh của doanh nghiệp.

*  Chuẩn bị các điều kiện đủ để doanh nghiệp phát triển.

 

Giai đoạn thành lập doanh nghiệp và kiến tạo các giá trị vật chất cơ bản ban đầu chính là việc chuẩn bị các điều kiện cần để doanh nghiệp ra đời. Ở thời điểm ban đầu này, các doanh nghiệp vừa đi vào hoạt động nên quan tâm hàng đầu đến yếu tố lợi nhuận mà quên mất những điều kiện đủ về mặt pháp lý và liên quan để phục vụ quá trình hoạt động của doanh nghiệp  một cách thuận lợi. Chỉ đến khi xuất hiện đối tác, khách hàng có điều kiện yêu cầu thì lúc này doanh nghiệp mới gấp rút thực hiện để tìm cách đáp ứng, giải quyết. Nhiều khi gặp những trường hợp doanh nghiệp rơi vào khó khăn khi giải quyết nhanh, tốn kém về chi phí và từ đó có thể mất đi những cơ hội làm ăn lớn vì không đáp ứng được hoặc đáp ứng chậm yêu cầu của khách hàng.

Chính vì lẽ đó, việc chuẩn bị các giấy tờ pháp lý có liên quan là điều kiện cần thiết, vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp khi bắt đầu đi vào hoạt động. Trong kinh doanh, cần chuẩn bị các giấy tờ liên quan đến ngành nghề, vốn, đáp ứng một hoặc nhiều điều kiện kinh doanh. Đối với một số lĩnh vực kinh doanh, các giấy phép chuyên ngành phải có sự chấp thuận của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là điều kiện bắt buộc để hoạt động.

* Tranh chấp hợp đồng kinh tế.

 

Khi ký kết hợp đồng kinh tế với đối tác, phần lớn các doanh nghiệp thường chú ý đến các điều khoản về thương mại như: giá cả, phương thức, lộ trình thanh toán, hàng hóa… mà không quan tâm nhiều đến các điều khoản pháp lý như các cam kết, quyền và nghĩa vụ của các bên, biện pháp chế tài, phương án xử lý khi có vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Điều này dẫn đến việc khi xảy ra tranh chấp, các doanh nghiệp thường bị thiệt hại. Chính vì vậy, doanh nghiệp cần có bộ phận phụ trách pháp chế, soạn thảo các bản hợp đồng với các điều khoản chặt chẽ để sử dụng trong đàm phán, ký kết với đối tác nhằm nắm thế chủ động trong giao dịch, tránh được các thiệt hại khi giao kết hợp đồng vơi khách hàng và đối tác.

* Doanh nghiệp phải thực hiện các quy định về thuế, kế toán doanh nghiệp.

 

Một doanh nghiệp sau khi thành lập sẽ phát sinh nghĩa vụ thuế đối với doanh nghiệp đó và nghĩa vụ này được quy định theo luật quản lý thuế và các văn bản pháp luật thuế có liên quan. Nghĩa vụ về thuế phải thực hiện đúng quy định một cách chính xác, đầy đủ và đúng thời hạn. Từ thời điểm thành lập doanh nghiệp, cần chú ý kê khai thuế ban đầu, xem xét việc kê khai và đóng các loại thuế tùy theo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có ba loại thuế cơ bản đối với doanh nghiệp là: thuế môn bài, thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp, ngoài ra trong quá trình hoạt động, kinh doanh doanh nghiệp phát sinh tùy từng lĩnh vực hoạt động, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp thì còn có các loại thuế khác như: tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường, thuế xuất – nhập khẩu… Việc không nộp, chậm nộp, kê khai thuế không đúng là những rắc rối dẫn đến vướng mắc và thiệt hại cho doanh nghiệp nếu không biết cách xử lý hoặc xử lý muộn.

* Huy động vốn đầu tư.

 

Một trong những cách nhanh nhất để phát triển nguồn lực là tiếp nhận nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức, cá nhân thông qua phương thức huy động. Các nhà đầu tư tự do và các quỹ đầu tư thường quan tâm đến tiềm năng của dự án, tính cam kết của đội ngũ và các yếu tố cấu thành sự thành công của dự án. Tuy nhiên, vấn đề hồ sơ pháp lý và việc tuân thủ các quy định pháp luật cũng là điều cần lưu tâm nếu muốn các giao dịch thành công. Doanh nghiệp nên phân bổ nguồn lực để tìm hiểu pháp luật và nắm bắt các thay đổi của luật pháp trong kinh doanh để tránh những rủi ro pháp lý tiềm ẩn có thể xảy ra và gây hậu quả nghiêm trọng cho doanh nghiệp.

* Vấn đề quyền sở hữu trí tuệ.

Một vấn đề nữa đó là, khi mọi hoạt động của doanh nghiệp đã đi vào thuận lợi. Các ý tưởng về sản phẩm, dịch vụ độc đáo và khác biệt sẽ tiếp cận thị trường nhanh chóng và việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm, dịch vụ đó cần bắt đầu ngay khi triển khai dự án hoặc ngay sau khi doanh nghiệp được thành lập. Trên thị trường có nhiều trường hợp hành hóa của công ty này bị làm giả bởi công ty khác bằng cách sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp của sản phẩm gây thiệt hại và ảnh hưởng đến uy tín và kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy doanh nghiệp nên chú trọng việc đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ vì điều này không chỉ đảm bảo cho doanh nghiệp độc quyền sử dụng tài sản của mình mà còn là cơ sở để thực hiện việc khiếu nại, khiếu kiện khi cần thiết nhằm đảm bảo quyền lợi tối đa cho doanh nghiệp.

Trên đây là một số các vấn đề cơ bản liên quan đến quá trình thành lập và đi vào hoạt động của doanh nghiệp mà doanh nghiệp cần nắm được để thuận lợi phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.Nắm được những vấn đề cơ bản này sẽ góp một phần giúp giành được thế chủ động cũng như tránh được các rủi ro thường gặp trong quá trình kinh doanh./.

Một số loại thuế cơ bản doanh nghiệp được hưởng ưu đãi trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh (Phần 2)
Trả lời

Các doanh nghiệp mới thành lập thường loay hoay trước các quy định về thuế và ưu đãi thuế. Bên cạnh nghĩa vụ thực hiện các loại thuế cơ bản như: thuế môn bài, thuế thu nhập thì thuế giá trị gia tăng cũng là một loại thế rất cơ bản và quen thuộc đối với doanh nghiệp.

Theo quy định mới nhất của pháp luật về thuế giá trị gia tăng, các đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng theo luật thuế Giá trị gia tăng và Thông tư 219/2013/TT-BTC, được cập nhật, sửa đổi, bổ sung theo Thông tư 26/2015/TT-BTC và Thông tư 130/2016/TT – BTC gồm các lĩnh vực kinh doanh, sản xuất sau:

  • Sản phẩm trồng trọt (bao gồm cả sản phẩm rừng trồng), chăn nuôi thủy sản, hải sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của các tổ chức, tự sản xuất, đánh bắt và bán ra và ở khâu nhập khẩu.
  • Sản phẩm là giống vật nuôi, giống cây trồng, bao gồm trứng giống, con giống, cây giống, hạt giống, cành giống, củ giống, phôi, vật liệu di truyền ở các khâu nuôi trồng, nhập khẩu và kinh doanh thương mại.
  • Tưới, tiêu nước: cày, bừa đất; nạo vét kênh, mương nội đồng phục vụ sản xuất nông nghiệp; dịch vụ thu hoạch sản phẩm nông nghiệp.
  • Phân bón là cá loại phân hữu cơ và phân vô cơ như: phân lân, phân đạm hỗn hợp, phốt phát, bồ tạt, phân vi sinh và các loại phân bón khác.
  • Thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy sản và thức ăn cho vật nuôi khác.
  • Tàu đánh bắt cá xa bờ là tàu có công suất máy chính từ 90CV trở lên làm nghề khai thác hải sản hoặc dịch vụ hậu cần phục vụ khai thác hải sản, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ khai thác, bảo quản sản phẩm cho tàu cá có tổng công suất máy chính từ 90CV trở lên làm nghề khai thác hải sản hoặc dịch vụ hậu cần phục vụ khai thác hải sản;
  • Máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất công nghiệp.
  • Sản phẩm muối được sản xuất từ nước biển, muối mỏ tự nhiên, muối tinh, muối i-ốt mà thành phần chính là NaCl.
  • Nhà thuộc sở hữu của Nhà nước do Nhà nước bản cho người đang thuê.
  • Chuyển quyền sử dụng đất.
  • Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm người học, các dịch vụ bảo hiểm khác liên quan đến con người…
  • Các dịch vụ tài chính, ngân hàng , kinh doanh chứng khoán.
  • Dịch vụ y tế, dịch vụ thú y.
  • Dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích và internet phổ cập theo chương trình của Chính phủ, dịch vụ bưu chính, viễn thong từ nước ngoài vào Việt Nam.
  • Dịch vụ duy trì vườn thú, vườn hoa, công viên cây xanh, đường phố, chiếu sáng công cộng, dịch vụ tang lễ.
  • Duy tu, sửa chữa xây dựng.
  • Dạy học, dạy nghề theo quy định của phap luật gồm cả dạy ngoại ngữ, tin học, dạy múa, hội họa nhạc kịch, thể thao văn hóa nghệ thuật, chuyên môn nghề nghiệp.
  • Phát sóng truyền thanh, truyền hình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
  • Xuất bản, nhập khẩu, phát hành báo, tạp chí, tin bản chuyên ngành, sách chính trị, sách giáo khoa, giáo trình, sách văn bản pháp luật…
  • Vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt, xe điện bao gồm cả tầu điện.
  • Hàng hóa thuộc loại trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu trong các trường hợp sau: Máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; máy móc thiết bị phụ tùng thay thế, phương tiện vận tài chuyên dùng và vật tư cần nhập khẩu để tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ dầu, khí đốt; tàu bay (bao gồm cả động cơ tàu bay), dàn khoan, tàu thủy thuộc loại trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp hoặc thuê của nước ngoài để sử dụng cho sản xuất kinh doanh, cho thuê, cho thuê lại.
  • Hàng nhập khẩu và hàng hóa, dịch vụ bán cho các tổ chức, các cá nhân để viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại.
  • Hàng hóa chuyển khẩu, quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam; hàng tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu; hàng tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu; nguyên liệu,vật tư nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng hóa xuất khẩu theo hợp đồng sản xuất, gia công xuất khẩu ký kết với bên nước ngoài; hàng hóa, dịch vụ được mua, bán giữa nước ngoài với các khu phi thuế quan và giữa các khu phi thuế quan với nhau.
  • Chuyển giao công nghệ theo quy định của Luật chuyển giao công nghệ; chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ. Trường hợp hợp đồng chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ có kèm theo chuyển giao máy móc, thiết bị thì đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng tính trên phần giá trị công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ chuyển giao, chuyển nhượng; trường hợp không tách riêng được thì tính thuế GTGT được tính trên cả phần giá trị công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ chuyển giao, chuyển nhượng cùng máy móc thiết bị.
  • Phần mềm máy tính bao gồm sản phẩm phần mềm và dịch vụ phần mềm theo quy định của pháp luật.
  • Vàng nhập khẩu dạng thỏi, miếng và các loại vàng chưa được chế tác thành sản phẩm mỹ nghệ, đồ trang sức hay sản phẩm khác.
  • Sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên khoáng sản khai thác chưa chế biến thành sản phẩm khác.
  • Sản phẩm nhân tạo dùng để thay thế cho bộ phận cơ thể của người bệnh, bao gồm cả sản phẩm là bộ phận cấy ghép lâu dài trong cơ thể người, nạng, xe lăn và dụng cụ chuyên dùng khác dùng cho người tàn tật.
  • Hàng hóa dịch vụ của hộ, cá nhân kinh doanh có mức doanh thu hàng năm từ một trăm triệu trở xuống.
  • Các hàng hóa dịch vụ gồm: Hàng hóa bán miễn thuế ở các cửa hàng bán miễn thuế theo quy định của Thủ tướng Chính phủ, hàng dự trữ quốc gia do cơ quan dự trữ quốc gia do cơ quan dự trữ quốc gia bán ra.

Qua phần trình bày trên đây, có thể thấy doanh nghiệp được ưu đãi thuế giá trị gia tăng ở rất nhiều lĩnh vực. Việc nắm được các quy định về thuế giá trị gia tăng nói chung, các ưu đãi về thuế nói riêng doanh nghiệp sẽ biết rõ hơn về chính sách của Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực nào và thuộc diện không chịu thuế  giá trị gia tăng để có định hướng chiến lược trong sản xuất kinh doanh và mang lại lợi ích lớn cho nền kinh tế đất nước./.

Một số loại thuế cơ bản doanh nghiệp được hưởng ưu đãi trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh (Phần 1)
Trả lời
Một doanh nghiệp sau khi thành lập sẽ phát sinh nghĩa vụ thuế đối với doanh nghiệp đó và nghĩa vụ này được quy định theo luật quản lý thuế và các văn bản pháp luật thuế có liên quan. Có ba loại thuế cơ bản đối với doanh nghiệp là: Thuế môn bài, thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp, ngoài ra trong quá trình hoạt động, kinh doanh doanh nghiệp phát sinh tùy từng lĩnh vực hoạt động, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp thì còn có các loại  thuế khác như: Tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường, thuế xuất – nhập khẩu… Đối với các doanh nghiệp khi thành lập và tiến hành kinh doanh thì vấn đề ưu đãi về thuế luôn là vấn đề đáng quan tâm. Tuy nhiên các quy định pháp luật về thuế có rất nhiều văn bản quy định và hướng dẫn thi hành khiến cho doanh nghiệp khó nắm bắt các nghĩa vụ và quyền lợi của mình. Trong phạm vi bài này xin được trình bày các quy định về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. 
 
Hiện nay Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành và thông tư hướng dẫn mới nhất số 96/2015/TT-BTC ngày 22/6/2015 hướng dẫn về thuế thu nhập doanh nghiệp và các văn bản pháp luật liên quan đã có rất nhiều quy định đổi mới có lợi cho doanh nghiệp. Theo đó, đối với các doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam (kể cả HTX, đơn vị sự nghiệp) hoạt động SXKD hàng hoá, dịch vụ có tổng doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng được áp dụng thuế suất 20%. Đối với các doanh nghiệp có tổng doanh thu liền kề giữa các năm vượt quá 20 tỷ thì sẽ chịu phí thuế thu nhập doanh nghiệp là 22% và năm sau sẽ giảm lại còn 20%. Các doanh nghiệp mới thành lập chưa đủ 12 tháng thì việc tính thuế thu nhập doanh nghiệp tạm thời là tính theo quý và thuế suất là 22% (trừ trường hợp thuộc diện được hưởng ưu đãi về thuế), kết thúc năm nếu doanh nghiệp nếu doanh thu bình quân từng tháng trong năm không vượt quá 1,67 tỷ đồng thì quyết toán thuế phải nộp sẽ là 20%.
 
So với trước đây khi chưa có sự  điều chỉnh theo quy định mới, hiện tại nhiều mặt hàng kinh doanh đang được Nhà nước ưu đãi thuế suất và tập trung chủ yếu ưu đãi đối với các công ty kinh doanh xăng dầu với các mặt hành liên quan như: mặt hàng xăng RON92/95, xăng sinh học (E5,E10): giữ nguyên mức 20%; mặt hàng dầu diezel, dầu diezel sinh học (B5, B10): Giảm từ 20% xuống 12% (giảm 8%); mặt hàng dầu hoả: giữ nguyên mức 20%; mặt hàng dầu mazut: giảm từ 25% xuống 13% (giảm 12%); mặt hàng nhiên liệu bay, xăng máy bay: giữ nguyên mức 10%
 
Bên cạnh việc ưu đãi mức thuế suất cho các doanh nghiệp thì còn có nhiều các trường hợp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong nước bao gồm: Thu nhập từ việc thực hiện các hợp đồng nghiên cứu khoa học; thu nhập từ việc thực hiện các hợp đồng dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ nông nghiệp; thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của các cơ sở kinh doanh dành riêng cho người lao động là người tàn tật; thu nhập từ hoạt động dạy nghề dành riêng cho người tàn tật, người dân tộc thiểu số, trẻ em hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đối tượng tệ nạn xã hội. Điều này thể hiện sự chú trọng các chính sách thuế hướng đến các mục tiêu xã hội và chào đón sự ra đời của không ít doanh nghiệp xã hội vừa được công nhận tư cách pháp lý và đăng ký hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2014.
 
Bên cạnh các doanh nghiệp trong nước thì việc doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam cũng được hưởng nhiều ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, điều này được thể hiện qua việc: Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với: phần giá trị bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật của các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn pháp định, miễn thuế thu nhập cho các nhà đầu tư nước ngoài chuyển nhượng phần vốn góp cho các doanh nghiệp nhà nước hoặc các doanh nghiệp mà nhà nước nắm cổ phần chi phối.
 
Ngoài ra doanh nghiệp nước ngoài được giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp cho các nhà đầu tư nước ngoài chuyển nhượng phần vốn góp cho các doanh nghiệp Việt Nam. Việc thực hiện các chủ trương ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nước ngoài, tạo động lực lớn cho việc thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vào đầu tư xây dựng hiệu quả tại Việt Nam.
 
Có thể thấy rằng ưu đãi thuế luôn là vấn đề doanh nghiệp muốn được hưởng khi thực hiện công cuộc hoạt động kinh doanh của mình. Qua tìm hiểu có thể thấy pháp luật thuế Việt Nam có rất nhiều chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp để hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thuận lợi và theo định hướng vì một nền phát triển bền vững./.