Hiện nay, xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu đang lan tỏa mạnh mẽ đến tất cả các nước trên thế giới mà trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một kênh hội nhập hiệu quả nhất, nhanh nhất để các nền kinh tế trên thế giới giao thương lẫn nhau. Hoạt động này đã xuất hiện ở các nước phát triển từ rất lâu nhưng đối với các nước đang phát triển và kém phát triển thì đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mới xuất hiện trong vài thập kỷ trở lại đây. Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng chỉ thực sự phát triển trong những năm gần đây và đang có xu hướng gia tăng trong thời gian tới.
Đầu tư ra nước ngoài đang được xem là xu hướng mới của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài tính đến hết quý I năm 2013, Việt Nam có 742 dự án đầu tư ra nước ngoài của của doanh nghiệp Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 15,5 tỷ USD. Các dự án ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam tập trung phần lớn trong lĩnh vực khai khoáng với 99 dự án, tổng vốn đầu tư 4,6 tỷ USD, (chiếm 13,3% về số dự án và 46% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là lĩnh vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản với 80 dự án, tổng vốn đầu tư 1,9 tỷ USD (chiếm 10,8% số dự án và 12,6% tổng vốn đầu tư); lĩnh vực sản xuất điện đứng thứ ba với 1,8 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 12,1%.
Đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư sang 59 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, Lào đứng vị trí thứ nhất với có 227 dự án, tổng vốn đầu tư trên 4,2 tỷ USD (chiếm 30,6% số dự án và 27,1% vốn đầu tư), Campuchia đứng vị trí thứ 2 với 129 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 2,7 tỷ USD (chiếm 17,4% số dự án và 17,6% vốn đầu tư). Tiếp theo là Liên bang Nga (chiếm 15,2% vốn đầu tư), Venezuela (11,8% vốn đầu tư) và các quốc gia khác.
Vốn thực hiện lũy kế đến nay ước đạt khoảng 3,8 tỷ USD; trong đó khoảng 2,9 tỷ USD trong lĩnh vực dầu khí; gần 500 triệu USD trong lĩnh vực trồng cây cao su khoảng; 400 triệu USD trong lĩnh vực thủy điện; viễn thông 249 triệu USD…Vốn đầu tư thực hiện tại Lào đạt khoảng 691 triệu USD; Campuchia đạt khoảng trên 621 triệu USD…
Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của các dự án đầu tư ra nước ngoài, có một phần đáng kể vốn được thực hiện thông qua việc mua sắm, sử dụng hàng hóa, máy móc, thiết bị, dịch vụ từ trong nước. Điều này góp phần làm tăng giá trị xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam ra nước ngoài. Trong nước (không chuyển ra nước ngoài). Theo báo cáo của Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Sông Đà, Tập đoàn cao su Việt Nam, Tập đoàn Than khoáng sản, Viettel, Hoàng Anh – Gia Lai… một phần vốn đầu tư ra nước ngoài được thực hiện để trả cho các nhà thầu của Việt Nam hoặc mua háng hóa, dịch vụ của Việt Nam để chuyển ra nước ngoài thực hiện dự án.
Thêm vào đó chính phủ đã đưa ra các chính sách ưu đãi đặc biệt như ưu đãi về thuế. Theo đó hàng hóa xuất khẩu dưới hình thức tạm nhập tái xuất để thực hiện dự án đầu tư tại nước ngoài, khi xuất khẩu thực hiện kê khai, nộp thuế theo quy định của pháp luật. Nếu tái nhập thì không phải nộp thuế nhập khẩu (NK) và được xét hoàn lại số thuế XK đã nộp, tương ứng với số hàng hóa thực tế đã tái NK.
Nếu hàng hóa là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu (trừ tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa qua chế biến) XK để tạo tài sản cố định của dự án đầu tư tại nước ngoài thì được áp dụng thuế giá trị gia tăng (GTGT) 0%; được khấu trừ thuế GTGT đầu vào như hàng hóa XK theo quy định của Luật Thuế GTGT; khi thanh lý hoặc kết thúc dự án, nếu NK trở lại vào Việt Nam thì được xét hoàn thuế XK đã nộp, tương ứng với số lượng hàng hóa thực tế tái nhập và không phải nộp thuế NK. Mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (DN) để tính và kê khai thuế đối với các khoản thu nhập từ nước ngoài là 25%, không áp dụng mức thuế suất ưu đãi mà DN Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đang được hưởng theo Luật Thuế thu nhập DN hiện hành. Thông tư quy định, nhà đầu tư Việt Nam là hộ kinh doanh, cá nhân thực hiện dự án đầu tư tại nước ngoài hoặc làm việc cho các dự án đầu tư tại nước ngoài, nộp thuế thu nhập cá nhân theo quy định của Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và quốc gia mà nhà đầu tư thực hiện dự án (nếu có), Luật Thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam.
Trường hợp khoản thu nhập từ dự án đầu tư tại nước ngoài đã chịu thuế thu nhập DN (hoặc một loại thuế có bản chất tương tự như thuế thu nhập DN) ở nước ngoài, khi tính thuế thu nhập DN phải nộp tại VN, DN VN đầu tư ra nước ngoài được trừ số thuế đã nộp ở nước ngoài hoặc đã được đối tác nước tiếp nhận đầu tư trả thay (kể cả thuế đối với tiền lãi cổ phần), nhưng số thuế được trừ không vượt quá số thuế thu nhập tính theo quy định của Luật thuế thu nhập DN của VN. Số thuế thu nhập DN VN đầu tư ra nước ngoài được miễn, giảm đối với phần lợi nhuận được hưởng từ dự án đầu tư ở nước ngoài theo luật pháp của nước DN đầu tư cũng được trừ khi xác định số thuế thu nhập DN phải nộp tại VN.
Vậy vấn đề đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam đang được nhà nước chú trọng đến mội cách sâu rộng hơn. Để phát huy thế mạnh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế, đưa Việt Nam ngày càng phát triển mạnh so với xu hướng phát triển của thế giới.
Đối với bất kỳ một quốc gia nào dù là nước phát triển hay đang phát triển thì vốn luôn đóng 1 vai trò đặc biệt quan trọng và cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế cũng như giải quyết các vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội. Nguồn vốn để phát triển kinh tế có thể được huy động ở trong nước hoặc từ nước ngoài, tuy nhiên nguồn vốn thường có hạn nhất là đối với những nước phát triển như Việt Nam. Vì vậy nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài ngày càng giữ 1 vai trò quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia.
Trong những năm vừa qua Việt Nam đã rất coi trọng công tác thu hút đầu tư từ nước ngoài. Chính phủ liên tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, trong đó đặc biệt coi trọng việc triển khai chương trình xây dựng pháp luật.
Theo báo cáo tổng kết 25 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam của Bộ kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam đã thu hút hơn 15.000 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tỷ trọng đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào GDP tăng dần qua các năm và đạt khoảng 20%GDP đóng góp 17 tỷ USD cho ngân sách nhà nước trong 5 năm vừa qua. Sự gia tăng mạnh mẽ của nguồn vốn đầu tư nước ngoài được thể hiện rõ nét qua các thời kỳ từ khoản 20,67 tỷ USD chiếm 24,32% tổng vốn đầu tư giai đoạn 1999-2000 đã tăng lên 69,47 tỷ USD, chiếm 22,57% tổng vốn đầu tư giai đoạn 2001-2011. Thêm vào đó Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư 2014 thay thế luật doanh nghiệp và luật đầu tư 2005 được coi là một bước đột phá trong việc mở cửa thị trường đổi mới khu vực, thu hút nguồn vốn đầu tư FDI từ nước ngoài vào Việt Nam không chỉ tăng về chất mà tăng cả về lượng. Các doanh nghiệp FDI đã góp phần làm thay đổi cơ cấu đất nước từ 1 nước nông nghiệp dần chuyển sang phi nông nghiệp. Thay đổi cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu theo chiều hướng giảm tỷ trọng sản phẩm khai khoáng hàng sơ cấp, tăng tỷ trọng hàng chế tạo. Luật sửa đổi đã có tác động tích cực tới việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, làm thay đổi đáng kể đến thị trường trong nước. Không những thế còn làm ổn định thị trường trong nước, giảm nhập siêu, tạo ra công việc cho hơn 2 triệu lao động trực tiếp , 4 triệu lao động gián tiếp không những thế còn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Những kết quả từ thực tế cho thấy công tác quản lý nhà nước về nguồn vốn đầu tư nước ngoài đang tiến dần đến chiều sâu, nâng cao chất lượng góp phần không nhỏ trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam.
Luật đầu tư 2014 được đánh giá là một bước đột phá và cải cách mạnh mẽ góp phần tạo nên môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, thông thoáng và hấp dẫn. Điểm đáng chú ý là Luật sửa đổi lần này sẽ hướng tới các doanh nghiệp nước ngoài thuận lợi hơn khi đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Đồng thời cũng làm rõ lĩnh vực ngành nghề kinh doanh ưu tiên cũng như các khu vực được khuyến khích đầu tư, đồng thời điều chỉnh những bất cập về ngành ngề kinh doanh có điều kiện. Hướng tới việc xây dựng môi trường đầu tư công khai.
Nói đến tác động của luật đầu tư mới thì đây được coi là một hành lang pháp lý mới được cộng đồng các nhà đầu tư, doanh nghiệp phản ứng rất tích cực. Giúp các nhà đầu tư và doanh nghiệp có niềm tin về môi trường kinh doanh tại Việt Nam.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế như công tác quản lý Nhà nước đối với nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài còn hạn chế và thiếu tính minh bạch. Tổng nguồn vốn đầu tư vào các dự án chưa cao, giá trị gia tăng tạo ra tại Việt nam vẫn còn thấp. Định hướng thu hút nguồn đầu tư còn thấp vì các lý do như điều kiện để được đầu tư vào Việt nam còn khó khăn. Mục tiêu thu hút công nghệ, chuyển giao công nghệ chưa đạt yêu cầu. Theo thống kê cho thấy nguồn đầu tư vào Việt Nam còn rất khiêm tốn so với các nước trong khu vực Châu Á. Cho đến nay mới chỉ có hơn 100 tập đoàn xuyên quốc gia có mặt tại Việt Nam. Tỷ lệ vốn góp thấp so với số vốn đăng ký, hầu hết các dự án có quy mô nhỏ và vừa, tiến độ dự án còn chậm và không đúng với tiến độ đã cam kết.
Để tăng hiệu quả thu hút nguồn vốn FDI tại Việt Nam trong thời gian tới cần thực hiện một số biện pháp sau:
– Cải cách thủ tục hành chính, đi đầu là sửa đổi và hoàn thiện luật đầu tư và các văn bản pháp luật khác liên quan để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài.
– Cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư. Cần có chiến lược định hướng hoạch định rõ ràng. Tổ chức lại bộ máy nhà nước để thuận tiện hơn cho các nhà đầu tư khi xin phép đầu tư vào Việt Nam.
– Xây dựng quy hoạch chi tiết cho các nguồn vốn FDI vào Việt Nam. Xây dựng quy hoạch vốn FDI theo ngành, vùng lãnh thổ.
Những nghiên cứu khác nhau cho thấy, hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có những tiêu chí riêng. Để bảo đảm tính tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản dưới luật, pháp lệnh đối với hệ thống pháp luật là vấn đề lớn, đòi hỏi sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan cũng như sự phối hợp đồng bộ từ cơ quan xây dựng, soạn thảo, thẩm định ban hành cho đến cơ quan kiểm tra, giám sát, rà soát văn bản quy phạm pháp luật. Do đó cần phải hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động các chủ thể trực tiếp tham gia vào quy trình xây dựng, ban hành, giám sát, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật.
1. Tiếp tục đơn giản hoá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Cần thu gọn các loại văn bản chứa quy phạm pháp luật nhằm làm cho hệ thống pháp luật đơn giản hơn, tạo thuận lợi cho việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, làm cho hệ thống pháp luật dễ tiếp cận, thuận lợi cho công tác thi hành và áp dụng pháp luật. Việc đơn giản hoá các hình thức văn bản quy phạm pháp luật giúp cho việc phân biệt rõ hơn văn bản quy phạm pháp luật với các loại văn bản pháp luật khác (văn bản điều hành, văn bản áp dụng, văn bản hành chính); đồng thời, tạo điều kiện cho việc xác định rõ trật tự hiệu lực pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và phù hợp với thông lệ lập pháp quốc tế.
2. Hạn chế tình trạng ban hành “luật khung”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định “Văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định, cụ thể để khi có hiệu lực thì thi hành được ngay. Trong trường hợp văn bản có điều, khoản, điểm mà nội dung liên quan đến quy trình, quy chuẩn kỹ thuật và những nội dung khác cần quy định chi tiết thì ngay tại điều, khoản, điểm đó có thể giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chi tiết. Văn bản quy định chi tiết chỉ được quy định nội dung được giao và không được quy định lặp lại nội dung của văn bản được quy định chi tiết”, nhưng trên thực tế vẫn xảy ra không ít các trường hợp vẫn quy định theo hướng “luật khung” còn để lại giao cho các cơ quan khác quy định cụ thể. Vì vậy, để tránh tình trạng các văn bản do cơ quan cấp dưới ban hành trái hoặc mâu thuẫn với văn bản do cơ quan cấp trên thì khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật các cơ quan cấp trên cần cố gắng đưa ra những quy định cụ thể để có thể thi hành được ngay, không cần có các văn bản quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi hành.
3. Áp dụng kỹ thuật một văn bản sửa nhiều văn bản.
Việc dùng một văn bản để sửa nhiều văn bản là một quy định tiến bộ của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó có thể tiến hành việc sửa đổi nhiều văn bản ngay trong một văn bản thay vì phải sửa đổi lần lượt từng văn bản. Chính vì vậy, với việc áp dụng kỹ thuật một văn bản sửa nhiều văn bản cho phép một cơ quan khi sửa đổi một quy định của pháp luật sẽ đồng thời sửa ngay những quy định có liên quan trong các văn bản quy phạm pháp luật khác do mình ban hành để bảo đảm sự thống nhất giữa các quy định mới với với hệ thống pháp luật, tránh xảy ra các trường hợp mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lắp với các quy định cũ trong hệ thống pháp luật.
4. Nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật.
Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các hoạt động: Hoạt động tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật; hoạt động kiểm tra của cơ quan cấp trên đối với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan cấp dưới;… Hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật nhằm mục đích phát hiện ra những văn bản quy phạm có nội dung không bảo đảm thống nhất với hệ thống pháp luật để kịp thời xử lý xử lý, loại bỏ ra khỏi hệ thống pháp luật.
5. Xây dựng thiết chế tài phán đối với các văn bản quy phạm pháp luật.
Hoạt động giám sát kiểm tra nhằm phát hiện những văn bản quy phạm pháp luật không bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, mâu thuẫn, chồng chéo không đem lại nhiều hiệu quả, kể cả khi phát hiện ra những trường hợp văn bản có dấu hiệu sai trái thì việc xử lý cũng ít khi được thực hiện. Điều đó dẫn đến những quy định sai trái đó vẫn có hiệu lực. Vì vậy cần thiết phải có thiết chế tài phán để xem xét, ra phán quyết đối với các văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu không bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật. Đây là việc làm cần thiết nhằm loại bỏ triệt để những quy định của pháp luật mâu thuẫn chồng chéo tồn tại trong hệ thống pháp luật…
Nhận thức sâu sắc về vai trò của pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam hội nhập với thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây đã có sự phát triển mạnh mẽ, với nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã và đang bộc lộ những khiếm khuyết nhất định. Điều này được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật còn nhiều chồng chéo, mâu thuẫn: Hệ thống pháp luật Việt Nam rất đa dạng về thể loại văn bản và khổng lồ về số lượng văn bản quy phạm pháp luật. Trong hệ thống pháp luật có 26 loại văn bản được xác định là văn bản quy phạm pháp luật. Theo số liệu của Cơ sở dữ liệu pháp luật Bộ Tư pháp, tính từ ngày 01/01/1987 đến ngày 30/12/2016, chỉ tính riêng văn bản pháp luật do các cơ quan trung ương ban hành thì hệ thống pháp luật nước ta đã có tới gần 20 nghìn văn bản, trong đó có 225 luật, bộ luật đang có và sắp có hiệu lực. Nếu kể cả các văn bản pháp luật do các cấp chính quyền địa phương ban hành thì con số này sẽ rất đồ sộ. Hơn nữa, do có quá nhiều loại văn bản được nhiều cấp ban hành, nhưng lại thiếu cơ chế cân nhắc toàn diện các lĩnh vực pháp luật khác nhau, nên mâu thuẫn và chồng chéo là khó tránh khỏi. Tính cồng kềnh, sự tồn tại các bất cập và mâu thuẫn làm giảm tính minh bạch của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu và khó áp dụng và vì thế, kém hiệu lực. Với hệ thống pháp luật như vậy, việc áp dụng, thực hiện không hề dễ dàng đối với cán bộ pháp luật có trình độ, chưa nói đến các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân.
Thứ hai, pháp luật thường xuyên thay đổi: Thực tế này là hệ quả tất yếu của việc chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Trong quá trình thể chế hoá các yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội, có không ít các quan điểm e ngại với những vấn đề mới, chỉ chấp nhận những vấn đề đã chín muồi, có sự đồng thuận cao, do đó khó tạo ra những đột phá và từ đó, có sự ổn định cần thiết. Thực tế này có nguyên nhân ở sự thiếu vắng những tầm nhìn và quan điểm chiến lược cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế – xã hội cụ thể của cả hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, nhiều văn bản pháp luật tuổi thọ rất ngắn, thậm chí mới ban hành đã phải tạm hoãn thực hiện hoặc phải sửa đổi, bổ sung. Pháp luật thường xuyên bị thay đổi, dẫn đến những khó khăn đáng kể trong việc thực hiện và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ xã hội, nhất là đối với các quan hệ kinh tế.
Thứ ba, rất nhiều văn bản pháp luật có tính quy phạm thấp: Điều đó được hiểu rằng các văn bản quy phạm pháp luật thiếu những quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Có những văn bản chứa đựng những quy định mang tính tuyên ngôn hơn là quy phạm pháp luật. Nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội đòi hỏi phải được điều chỉnh cụ thể, chi tiết thì pháp luật lại là văn bản pháp luật “khung”. Phần lớn các văn bản luật như vậy giao cho Chính phủ ban hành nghị định để cụ thể hoá. Nhiều nghị định của Chính phủ lại giao cho bộ, ngành, địa phương hướng dẫn thực hiện. Thực tế này đã dẫn đến tình trạng nảy sinh không ít mâu thuẫn giữa văn bản hướng dẫn và văn bản được hướng dẫn thi hành.
Thứ tư, tính minh bạch của hệ thống pháp luật còn hạn chế: Công báo của Trung ương và các tỉnh đã đăng tải khá đầy đủ, kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật. Các phương tiện thông tin đại chúng, cả hệ thống chính trị và xã hội đã có nhiều cố gắng tuyên truyền, phổ biến rộng rãi pháp luật. Như vậy, xét ở khía cạnh khả năng tiếp cận thì tính minh bạch của hệ thống pháp luật được bảo đảm tốt hơn. Tuy nhiên, xét ở tính minh xác, tính minh định thì hệ thống pháp luật vẫn còn thiếu tính minh bạch. Chính hạn chế này khiến các chủ thể thực sự lúng túng khi thực hiện hay áp dụng pháp luật. Quy trình xây dựng pháp luật vẫn chưa tạo được cho công chúng những tiếp cận và tham gia cần thiết. Các ý kiến của chuyên gia, của các nhà khoa học nói riêng và của công chúng nói chung chưa thực sự được cân nhắc và tiếp thu. Mặt khác, tính tích cực công dân tham gia xây dựng pháp luật nhìn chung chưa cao.
Thứ năm, tính hệ thống của pháp luật còn rất hạn chế: Các văn bản luật, các văn bản dưới luật khác nhau chưa thực sự tạo thành một chỉnh thể với những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Những mâu thuẫn giữa Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Bộ luật Dân sự về một số vấn đề (như: Hiệu lực các giao dịch, về căn cứ xác định sở hữu, đăng ký quyền sở hữu) mà công luận nêu lên gần đây là ví dụ cho tính hệ thống thấp của pháp luật hiện hành của nước ta./.
Pháp luật là nền tảng của Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ là hệ thống pháp luật làm nền tảng cho Nhà nước pháp quyền phải như thế nào? Đương nhiên, một hệ thống pháp luật với những quy định hạn chế quyền tự do, dân chủ của nhân dân, cản trở sự tiến bộ xã hội, công lý không được bảo đảm, chưa kể đến việc thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, thì không thể trở thành nền tảng của Nhà nước pháp quyền, bởi vì không đáp ứng được yêu cầu thứ hai của Nhà nước pháp quyền là bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân và công lý. Như vậy, khi tiếp cận pháp luật từ góc độ Nhà nước pháp quyền, có thể nhận diện được một số yêu cầu sau đây đối với hệ thống pháp luật:
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang được hiện thực hoá trong thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà nước và các thiết chế xã hội. Điều quan trọng cần được nhấn mạnh khi nói về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà chúng ta chủ trương xây dựng, chính là sự vận dụng về cơ bản toàn bộ các tiêu chí của Nhà nước pháp quyền nói chung và những giá trị riêng của một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những nghiên cứu khác nhau cho thấy, hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có những tiêu chí riêng sau đây:
1. Hướng tới sự bình đẳng, công bằng xã hội
Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ chú trọng bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý mà còn đặc biệt chú trọng đến sự bình đẳng xã hội, công bằng xã hội. Trong một Nhà nước theo chế độ pháp trị, pháp luật mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền bao gồm một tập hợp các quy định mà nếu thiếu chúng thì không thể có sự cùng tồn tại trong hoà bình và tự do. Với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì giá trị của pháp luật phải bổ sung thêm yếu tố là bình đẳng xã hội, công bằng xã hội. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ bảo đảm cá nhân, tổ chức cùng tồn tại trong sự hoà hợp và tự do mà cả trong sự bình đẳng, công bằng xã hội, chống lại mọi sự phân biệt giàu nghèo, sự thống trị của chủ nghĩa tự do cực đoan.
2. Hệ thống pháp luật phải thể hiện được ý trí của toàn dân
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thể hiện được ý chí của nhân dân mà người đại diện là tổ chức chính trị được nhân dân thừa nhận và sự thừa nhận đó đã trở thành nguyên tắc hiến định trong hệ thống pháp luật nước ta. Do đó, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải là sự thể chế hoá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Thực tế cho thấy, những thành tựu của quá trình xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam trong hơn 20 năm qua gắn chặt với quá trình hoàn thiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Chính những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, chẳng hạn về phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh, đã làm cơ sở cho sự hình thành những quan điểm và định hướng chiến lược cho sự phát triển của hệ thống pháp luật của đất nước. Văn kiện tập trung nhiều quan điểm và giải pháp chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chính là Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Xuất phát từ những nghiên cứu toàn diện về hệ thống pháp luật, nhất là những bất cập của nó nhìn từ những yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW, trong đó đã đánh giá: “Hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu”. Trong số những nguyên nhân chính của những yếu kém nêu trên Nghị quyết nhấn mạnh đến sự thiếu vắng tầm nhìn chiến lược. Vì vậy, Nghị quyết số 48-NQ/TW đã xác định nhiều quan điểm, định hướng và giải pháp chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, với sáu định hướng cho việc xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật mang tính chiến lược và khoa học cao; hai nhóm giải pháp thực hiện có tính khả thi cao (nhóm giải pháp xây dựng pháp luật và nhóm giải pháp thực hiện pháp luật). Từ đó, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là việc xây dựng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội hàng năm và cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII có rất nhiều thuận lợi và thực sự đã mang tính định hướng chiến lược sâu sắc. Những nghiên cứu, đánh giá ban đầu ba năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW cho thấy giá trị to lớn của văn bản quan trọng này đối với hệ thống pháp luật nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu to lớn mà Nghị quyết số 48-NQ/TW mang lại thể hiện rất rõ nét trong lĩnh vực xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế./.
Trong vòng 5 năm qua, chỉ số giá nhà ở trên thị trường bất động sản Hà Nội đã có sự sụt giảm đáng kể. Diễn biến này phản ánh thị trường đang bắt đầu hướng tới sự ổn định, ngày càng sát với giá trị thực hơn sau khi trải qua giai đoạn “sốt nóng”. Điều này được thể hiện bằng việc chỉ số giá nhà đang giảm đáng kể.
Sở Xây dựng Hà Nội vừa công bố Báo cáo chỉ số giá nhà ở chung cư trên thị trường Bất động sản Hà Nội quý IV/2016. Theo đó, khảo sát được thực hiện tại các quận: Ba Đình, Cầu Giấy, Tây Hồ, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hà Đông, Hoàng Mai, Long Biên, Thanh Xuân, Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm. Thành phần khảo sát gồm chung cư cao cấp, trung cấp và bình dân, lấy quý I/2011 làm thời điểm gốc để so sánh (riêng quận Hai Bà Trưng là quý IV/2013); thang điểm tại thời điểm gốc được tính là 100%.
Kết quả, chỉ số giá nhà ở chung cư tại Hà Nội đã có sự sụt giảm đáng kể trong 5 năm qua. Kết quả này phản ánh đúng diễn biến của thị trường khi chuyển từ giai đoạn ‘sốt nóng’ vào năm 2011 sang giai đoạn ‘đóng băng’ vào năm 2012-2013. Mặc dù thị trường bắt đầu có dấu hiệu hồi phục từ cuối năm 2014, sau đó tương đối ổn định trong năm 2015-2016, nhưng chỉ số giá vẫn trong xu hướng giảm nhẹ. So với thời điểm gốc thì Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm là hai khu vực có chỉ số giá nhà ở giảm mạnh nhất. Theo đó, chỉ số giá chung cư trung cấp tại quận Bắc Từ Liêm thời điểm quý IV/2016 chỉ còn 73,69%, trong khi chung cư trung cấp tại quận Nam Từ Liêm còn 74,47% và cao cấp còn 75,97%. Một chỉ số tương đồng nữa được ghi nhận tại phân khúc trung cấp tại quận Hoàng Mai với 75,27%.
Trong số các quận trung tâm cũ được khảo sát, Hai Bà Trưng là quận duy trì ổn định với chỉ số giá quý IV/2016 tại phân khúc trung cấp là 97,72%, giảm khoảng hơn 2% sau 3 năm được khảo sát. Tại quận Ba Đình chỉ số này là 84,45%, gần như giữ nguyên không thay đổi trong cả năm 2016 và giảm xấp xỉ 4% so với quý I/2015. Có điểm phần trăm thấp hơn một chút là chỉ số giá chung cư trung cấp tại quận Đống Đa quý IV/2016 với 79,23%, cũng giữ ổn định trong năm 2016 và giảm khoảng 3% so với quý I/2015.
Cũng theo báo cáo, chỉ số giá nhà ở tại một số khu vực tăng cao hơn so với đầu năm 2015. Cụ thể, là phân khúc chung cư cao cấp tại quận Thanh Xuân, quý IV/2016 đạt 95,50%, tăng khoảng 1,5% so với quý I/2015; phân khúc chung cư trung cấp tại quận Tây Hồ đạt 87,25%, tăng khoảng 1,25%; phân khúc chung cư cao cấp quận Tây Hồ đạt 80,22%, tăng hơn 2%; phân khúc chung cư bình dân quận Hoàng Mai đạt 85,77%, tăng gần 3%.
Mặc dù chỉ số giá nhà giảm trong 5 năm qua nhưng 2 năm gần đây, khu vực quận Cầu Giấy lại khá ổn định, với chỉ số giá dao động trong khoảng 88-89% ở phân khúc trung cấp, 78-79% ở phân khúc cao cấp; trong khi quận Hà Đông trên dưới 79% và quận Long Biên 85-86%.
Ổn định trong năm 2017
Chọn khoảng thời gian khảo sát dài hơn, báo cáo chỉ số giá của Công ty TNHH Savills Việt Nam lấy quý I/2009 làm thời điểm gốc và dùng thang điểm 100. Nếu so sánh với quý II-2011 – thời điểm giá bất động sản cao nhất, đạt xấp xỉ 140 điểm thì hiện tại giá bất động sản đã giảm xuống còn 104,3 điểm. Còn nếu so với cùng kỳ năm 2015 thì chỉ số giá cũng giảm 3,9 điểm. Tuy nhiên, báo cáo này đánh giá, từ giữa năm 2014, chỉ số giá nhà ở tương đối ổn định. Đáng chú ý, tỷ lệ hấp thụ trên thị trường đạt khoảng 31%, giảm khoảng 9% so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, phân khúc chung cư trung cấp có lượng bán ra lớn nhất trong 7 quý gần đây, chiếm tới 44% thị phần. Về thị trường trong năm 2017, báo cáo này đánh giá, thị trường Bất động sản sẽ tiếp tục duy trì ổn định cho dù nguồn cung tương lai lớn, tập trung vào phân khúc hạng trung và nhà ở giá rẻ, chủ yếu ở các quận Hoàng Mai, Thanh Xuân và Hà Đông.
Việc sụt giảm của chỉ số giá nhà ở trên thị trường bất động sản trong 5 năm qua được đánh giá là xu hướng tích cực, phản ánh thị trường đang hướng vào sự ổn định, đúng với giá trị thực sau khi trải qua giai đoạn ‘sốt nóng’ và ‘đóng băng’. Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Nguyễn Trần Nam nhận xét, thị trường bất động sản đã vượt qua giai đoạn khó khăn và đang dần hồi phục. Năm 2017 sẽ là thời của phân khúc nhà ở giá rẻ, phù hợp với sức thanh toán của thị trường, nhu cầu của đại đa số người dân, hướng tới thị trường bất động sản lành mạnh, bền vững.
Đánh giá về giai đoạn vừa qua, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà nhận định, với việc tái cấu trúc thị trường gắn với thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, thị trường bất động sản sau quãng thời gian dài trầm lắng đang dần hồi phục tích cực, và giữ vững sự ổn định này trong năm 2016. Tuy nhiên, hiện thị trường vẫn tồn tại sự mất cân đối nguồn cung, nhà ở cao cấp và một số sản phẩm nghỉ dưỡng dư thừa nhưng lại rất thiếu nhà ở xã hội, nhà ở thương mại giá rẻ. Do đó, qua phân tích một số yếu tố kinh tế – xã hội chủ yếu có thể tác động đến thị trường bất động sản, dự báo thị trường bất động sản trong năm 2017 sẽ tiếp tục xu hướng tăng trưởng ổn định, khả năng biến động lớn gần như không có.
Tuy nhiên xét về dài hạn, cần theo dõi chặt chẽ, kịp thời, đánh giá đúng tình hình diễn biến thị trường để đưa ra các chính sách tín dụng, tài khóa hợp lý, linh hoạt theo hướng vừa bảo đảm nguồn vốn trung, dài hạn cho phát triển nhà ở xã hội và nhà ở thương mại giá rẻ mà thị trường có nhu cầu cao, vừa kiểm soát tốt nguồn vốn đổ vào phân khúc bất động sản cao cấp, rà soát hạn mức tín dụng hợp lý đối với các dự án khu nghỉ dưỡng… nhằm bảo đảm hiệu quả đầu tư, tránh gia tăng nợ xấu.
(Theo Hà Nội mới)
1. Khái niệm hệ thống pháp luật Việt Nam.
Pháp luật chính là một hệ thống thể hiện ý chí của Nhà nước, của giai cấp cầm quyền cho nên pháp luật ở mọi quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng không phải được sắp xếp theo một cách ngẫu nhiên, tuỳ tiện mà được sắp xếp theo một trình tự rất chặt chẽ do những yếu tố khách quan quy định. Dưới góc độ đó, hệ thống pháp luật có một số những đặc điểm sau:
– Tính khách quan: Tính khách quan của hệ thống pháp luật liên hệ chặt chẽ với các đặc điểm trên và được thể hiện ở chỗ: sự hình thành các bộ phận cấu thành của nó được tồn tại trong thực tế khách quan. Không thể đặt ra, sắp xếp các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật, ngành luật một cách chủ quan không tính đến hoặc không nghiên cứu đầy đủ cơ cấu và sự phát triển các quan hệ xã hội đang tồn tại trên thực tế khách quan, bởi các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của pháp luật;
– Tính thống nhất và tính hài hoà: Các quy phạm pháp luật không mâu thuẫn với nhau mà tồn tại theo thứ bậc và phối hợp chặt chẽ với nhau. Các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp và không được trái với các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước cấp trên ban hành. Nhiều quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp dưới là sự cụ thể hoá các quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp cao hơn;
– Sự phân chia hệ thống pháp luật thành các bộ phận cấu thành: Với tư cách là một hệ thống pháp luật được chia ra các yếu tố cấu thành là các ngành luật, chế định pháp luật. quy phạm pháp luật. Đặc điểm này là tất yếu bởi vì: tổng thể các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, trong mỗi lĩnh vực như thế lại có các nhóm quan hệ xã hội có tính độc lập tương đối với nhau. Chính sự hình thành những lĩnh vực và nhóm quan hệ xã hội đã quy định sự phân chia hệ thống pháp luật ra các bộ phận cấu thành./.
Có nhiều quan điểm khác nhau về hệ thống pháp luật Việt Nam nhưng quan điểm được giới Khoa học pháp lý đánh giá cao là: “ Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật và được thể hiện trong các văn bản do cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành theo những hình thức, thủ tục nhất định để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam”. Như vậy, hệ thống pháp luật được hiểu là chỉnh thể bao gồm các bộ phận có liên quan mật thiết với nhau, được sắp xếp theo một trình tự logíc, khách quan và khoa học. Theo đó, hệ thống pháp luật là một phạm trù thể hiện cấu trúc bên trong và hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật. cụ thể:
– Cấu trúc bên trong: Là mối liên hệ bên trong giữa các ngành luật gọi là hệ thống các ngành luật, hệ thống các ngành luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất và phối hợp với nhau, được phân chia thành các ngành luật, chế định pháp luật và các quy phạm pháp luật ở các cấp độ khác nhau;
– Quy phạm pháp luật: Là những quy tắc xử sự trong các trường hợp cụ thể do Nhà nước quy định có tính chất bắt buộc chung. Đây là bộ phận nhỏ nhất của hệ thống, mang tính cụ thể cũng như tính khái quát. Các bộ phận khác của hệ thống pháp luật đều được hình thành do sự kết hợp của các quy phạm pháp luật. Ý chí của Nhà nước thể hiện trong pháp luật và được mô hình hoá bởi các quy phạm pháp luật;
– Chế định pháp luật: Là một nhóm những quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội cùng loại có liên hệ mật thiết với nhau;
– Ngành luật: Bao gồm các chế định pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội có chung một tính chất. Dựa vào tính chất giống nhau, gần gũi mà có thể xếp các nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất thành một ngành luật và trở thành đối tượng điều chỉnh chung của ngành luật. Dựa vào đối tượng điều chỉnh của một ngành luật để tiến hành hệ thống hoá các quy phạm pháp luật thành các hệ thống pháp luật theo từng ngành, thuận tiện cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật;
– Hình thức biểu hiện bên ngoài: Là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật được thể hiện thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Mỗi loại văn bản có giá trị pháp lý cao thấp khác nhau nhưng đều thuộc vào những ngành luật nhất định.
2. Những đặc điểm chung của hệ thống pháp luật Việt Nam
Pháp luật chính là một hệ thống thể hiện ý chí của Nhà nước, của giai cấp cầm quyền cho nên pháp luật ở mọi quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng không phải được sắp xếp theo một cách ngẫu nhiên, tuỳ tiện mà được sắp xếp theo một trình tự rất chặt chẽ do những yếu tố khách quan quy định. Dưới góc độ đó, hệ thống pháp luật có một số những đặc điểm sau:
Tính khách quan: Tính khách quan của hệ thống pháp luật liên hệ chặt chẽ với các đặc điểm trên và được thể hiện ở chỗ: sự hình thành các bộ phận cấu thành của nó được tồn tại trong thực tế khách quan. Không thể đặt ra, sắp xếp các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật, ngành luật một cách chủ quan không tính đến hoặc không nghiên cứu đầy đủ cơ cấu và sự phát triển các quan hệ xã hội đang tồn tại trên thực tế khách quan, bởi các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của pháp luật;
Tính thống nhất và tính hài hoà: Các quy phạm pháp luật không mâu thuẫn với nhau mà tồn tại theo thứ bậc và phối hợp chặt chẽ với nhau. Các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp và không được trái với các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước cấp trên ban hành. Nhiều quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp dưới là sự cụ thể hoá các quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp cao hơn;
Sự phân chia hệ thống pháp luật thành các bộ phận cấu thành: Với tư cách là một hệ thống pháp luật được chia ra các yếu tố cấu thành là các ngành luật, chế định pháp luật. quy phạm pháp luật. Đặc điểm này là tất yếu bởi vì: tổng thể các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, trong mỗi lĩnh vực như thế lại có các nhóm quan hệ xã hội có tính độc lập tương đối với nhau. Chính sự hình thành những lĩnh vực và nhóm quan hệ xã hội đã quy định sự phân chia hệ thống pháp luật ra các bộ phận cấu thành./.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp Việt Nam hiện hành, các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam khá đa dạng. Sự đa dạng này là tạo nên sự sôi động trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tuy nhiên nhiều nhà khởi nghiệp vẫn đang loay hoay để chọn cho mình một loại hình phù hợp. Vì vậy, trong số các loại hình doanh nghiệp đó, để chọn được loại hình doanh nghiệp phù hợp với định hướng thành lập và hoạt động doanh nghiệp cũng như tình hình thực tế, người thành lập doanh nghiệp cần tìm hiểu và nắm vững được bản chât, ưu điểm và nhược điểm của từng loại hình doanh nghiệp. Trong phạm vi bài viết này xin được trình bày về một số các loại hình doanh nghiệp phổ biến hiện nay.
* Doanh nghiệp tư nhân:
Doanh nghiệp tư nhân là một tổ chức kinh tế được đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp và thực hiện các hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ, có tài sản, có trụ sở giao dịch. Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật, có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của công ty. Thông thường, chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ trực tiếp quản lý và điều hành mọi hoạt động của công ty, tuy nhiên người chủ này vẫn có thể thuê người khác để thay mình làm công việc này. Doanh nghiệp tư nhân là công ty trách nhiệm vô hạn và không có tư cách pháp nhân.
+ Ưu điểm: Doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn chủ động trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân ít bị chịu sự ràng buộc chặc chẽ bởi pháp luật. Doanh nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng bởi chế độ trách nhiệm vô hạn.
+ Nhược điểm: Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân nên mức độ rủi ro của chủ doanh nghiệp tư nhân cao. Trách nhiệm vô hạn: Doanh nghiệp chịu trách nhiệm về các khoản nợ không những bằng tài sản công ty mà lẫn cả tài sản của chủ doanh nghiệp.
* Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên (TNHH 2 TV).
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân được pháp luật thừa nhận (Luật Doanh nghiệp). Chủ sở hữu công ty và công ty là hai thực thể pháp lý riêng biệt. Trước pháp luật, công ty TNHH có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, chủ sở hữu công ty là thể nhân với các quyền và nghĩa vụ tương ứng với quyền sở hữu công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có không quá 50 thành viên cùng góp vốn thành lập và công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài chính khác trong phạm vi nghĩa vụ tài sản của công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
+ Ưu điểm: Chế độ trách nhiệm hữu hạn: Công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoảng nợ nằm trong phạm vi số vốn góp vào công ty nên ít gây rủi ro cho người góp vốn.
Chế độ chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư dễ dàng kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của người lạ vào công ty.
+ Nhược điểm: Uy tín của công ty trước đối tác phần nào bị ảnh hưởng bởi chế độ trách nhiệm hữu hạn của các thành viên; mặt khác công ty TNHH 2 thành viên không có quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
So với Doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh thì Công ty TNHH hai thành viên thành viên chịu sự điều chỉnh của pháp luật doanh nghiệp chặt chẽ hơn.
* Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH 1 TV).
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một hình thức đặc biệt của công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát hành cổ phiếu.
Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác; trường hợp rút một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ đã góp ra khỏi công ty dưới hình thức khác thì chủ sở hữu và cá nhân, tổ chức có liên quan phải liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty. Chủ sở hữu công ty không được rút lợi nhuận của công ty khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả.
Tùy thuộc quy mô và ngành, nghề kinh doanh, cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên bao gồm: Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu được tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai mô hình sau đây:
+ Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên;
+ Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên.
Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Trường hợp Điều lệ công ty không quy định khác, thì chức năng, quyền và nghĩa vụ của Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên thực hiện theo quy định của Luật này.
Các ưu điểm và nhược điểm của loại hình Công ty TNHH 1 thành viên mang nhiều nét tương đồng so với công ty TNHH 2 thành viên.
* Công ty hợp danh.
Công ty hợp danh là công ty trong đó phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung. Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn.
Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân, các thành viên có quyền quản lý công ty và tiến hành các hoạt động kinh doanh thay công ty, cùng nhau chịu trách nhiệm và nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn được chia lợi nhuận theo tỷ lệ tại quy định điều lệ công ty, các thành viên hợp danh có quyền lợi ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý công ty. Những ưu điểm và nhược điểm của công ty hợp danh.
+ Ưu điểm: Công ty hợp danh là kết hợp được uy tín cá nhân của nhiều người. Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh mà công ty hợp danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn hàng, đối tác kinh doanh. Việc điều hành quản lý công ty hợp danh không quá phức tạp do số lượng các thành viên ít và là những người có uy tín, tuyệt đối tin tưởng nhau.
+ Nhược điểm: Hạn chế của công ty hợp danh là do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên mức độ rủi ro của các thành viên hợp danh cao.
* Công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là loại hình công ty, trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần được th��nh lập và tồn tại độc lập. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
Công ty cổ phần có quyền lựa chọn tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai mô hình sau đây, trừ trường hợp pháp luật về chứng khoán có quy định khác:
– Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp công ty cổ phần có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì không bắt buộc phải có Ban kiểm soát;
– Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị. Các thành viên độc lập thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều hành công ty.
Trường hợp chỉ có một người đại diện theo pháp luật, thì Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty; trường hợp Điều lệ không có quy định khác thì Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp có hơn một người đại diện theo pháp luật, thì Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty, có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra ngoài theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
Những ưu và nhược điểm của Công ty cổ phần.
+ Ưu điểm: Chế độ trách nhiệm hữu hạn: Công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoảng nợ trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông không cao.
Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các lĩch vực, ngành nghề.
Cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty.
Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn vì vậy khả năng huy động vốn rất cao.
Việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng lớn.
+ Nhược điểm: Việc quản lý và điều hành công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ động đối kháng nhau về lợi ích.
Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán doanh nghiệp.
Trên đây là phần trình bày tổng quan về các loại hình doanh nghiệp phổ biến hiện nay theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Hi vọng những phần trình bày và phân tích những đặc điểm của các loại hình doanh nghiệp trong bài viết này có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các doanh nghiệp./.
Luật Kinh doanh bất động sản 2014 ra đời thay thế Luật Kinh doanh bất động sản 2006, trong đó đã có nhiều sửa đổi, và bổ sung những vấn đề mới đáng lưu ý và phù hợp với thực tiễn hoạt động kinh doanh bất động sản tại Việt Nam trong thời gian gần đây. Đặc biệt, Luật đã sửa đổi và bổ sung những vấn đề liên quan đến kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai, đây là một vấn đề khá mới và nổi bật của Luật Kinh doanh bất động sản 2014.
Thứ nhất, bất động sản hình thành trong tương lai được bổ sung vào các loại bất động sản được đưa vào kinh doanh. Đây là một trong những điểm mới quan trọng của Luật Kinh doanh bất động sản 2014, cụ thể Điều 5 quy định: Nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai của tổ chức cá nhân là một trong những loại bất động sản được đưa vào kinh doanh.
Thứ hai, quy định về điều kiện của bất động sản hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh theo khoản 1 Điều 55 Luật Kinh doanh bất động sản 2014, cụ thể điều kiện là : Phải có giấy tờ về quyền sử dụng đất, hồ sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Giấy phép xây dựng đối với trường hợp phải có Giấy phép xây dựng, giấy tờ về nghiệm thu việc hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương ứng theo dự án.
Trường hợp đối với bất động sản hình thành trong tương lai là chung cư, tòa nhà hỗn hợp có mục đích để ở thì phải có biên bản nghiệm thu đã hoàn thành xong phần móng của tòa nhà đó.
Thứ ba, phải thực hiện bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai. Có thể nói đây là một trong những điểm mới nổi bật về vấn đề kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai của Luật Kinh doanh bất động sản 2014. Nội dung về bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai quy định tại Điều 57 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 như sau:
Nhà ở hình thành trong tương lai trước khi bán, cho thuê mua thì phải được sự bảo lãnh của ngân hàng có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư đối với khách hàng trong trường hợp chủ đầu tư không bàn giao nhà ở theo đúng tiến độ đã cam kết với khách hàng; danh sách ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh sẽ do ngân hàng Nhà nước công bố.
Giữa ngân hàng bảo lãnh và chủ đầu tư phải thực hiện thành lập hợp đồng bảo lãnh, và chủ đầu tư phải có trách nhiệm gửi bản sao hợp đồng bảo lãnh cho bên mua, bên thuê mua khi ký kết hợp đồng mua, thuê mua. Thời hạn của hợp đồng bảo lãnh là khi nhà ở được giao cho bên mua, bên thuê mua; Trường hợp chủ đầu tư không giao đúng nhà ở theo tiến độ cam kết, bên mua, thuê mua có yêu cầu thì bên ngân hàng bảo lãnh phải có trách nhiệm hoàn lại số tiền ứng trước và các khoản tiền khác cho khách hàng theo hợp đồng mua bán, thuê mua nhà và hợp đồng bảo lãnh.
Thứ tư, Luật Kinh doanh bất động sản 2014 cũng quy định tương đối chi tiết về việc thanh toán trong mua bán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai. Cụ thể :
Bên mua, thuê mua thực hiện thanh toán nhiều lần, lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng; việc thanh toán những lần tiếp theo phải phù hợp vào tiến độ xây dựng song không quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao nhà, công trình xây dựng; trường hợp bên bán , bên cho thuê mua là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tổng số thanh toán không quá 50% giá trị hợp đồng.
Trường hợp chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì không được thu quá 95% giá trị hợp đồng. Giá trị còn lại được thanh toán khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Có thể nói, Luật Kinh doanh bất động sản 2014 đã có nhều quy định mới và tích cực về vấn đề kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai, đây là một vấn đề khá mới và khá “nóng” đối trong hoạt động kinh doanh bất động sản trong những năm gần đây.
(Sưu tầm)