Nhiều ngân hàng tăng mạnh lãi suất huy động
Với mong muốn bổ sung thêm nguồn vốn trung, dài hạn để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh cuối năm, đồng thời giảm...
Bùng nổ nhượng quyền thương hiệu vào Việt Nam
Hoạt động nhượng quyền đang được giới kinh doanh vận dụng để đưa các thương hiệu nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Ngoài lĩnh...
6 ngành kinh tế phát triển mũi nhọn khu vực miền Trung
Có 6 lĩnh vực kinh tế biển, ven biển đang được các tỉnh miền Trung tập trung phát triển và đã đạt được những kết...
91.9% doanh nghiệp lạc quan về hoạt động sản xuất 6 tháng cuối năm
Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tỷ lệ doanh nghiệp dự báo về khối lượng sản xuất khả...
Việt Nam chuyển dần từ nhập siêu sang xuất siêu với CPTPP
Với hầu hết các hiệp định thương mại (FTA) đã ký, Việt Nam thường nhập siêu, thì nay, khi thực hiện CPTTP, trong 7 tháng...
Giải đáp pháp luật
Một số hạn chế của hệ thống pháp luật Việt Nam
Trả lời

Nhận thức sâu sắc về vai trò của pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam hội nhập với thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây đã có sự phát triển mạnh mẽ, với nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã và đang bộc lộ những khiếm khuyết nhất định. Điều này được thể hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất, hệ thống pháp luật còn nhiều chồng chéo, mâu thuẫn: Hệ thống pháp luật Việt Nam rất đa dạng về thể loại văn bản và khổng lồ về số lượng văn bản quy phạm pháp luật. Trong hệ thống pháp luật có 26 loại văn bản được xác định là văn bản quy phạm pháp luật. Theo số liệu của Cơ sở dữ liệu pháp luật Bộ Tư pháp, tính từ ngày 01/01/1987 đến ngày 30/12/2016, chỉ tính riêng văn bản pháp luật do các cơ quan trung ương ban hành thì hệ thống pháp luật nước ta đã có tới gần 20 nghìn văn bản, trong đó có 225 luật, bộ luật đang có và sắp có hiệu lực. Nếu kể cả các văn bản pháp luật do các cấp chính quyền địa phương ban hành thì con số này sẽ rất đồ sộ. Hơn nữa, do có quá nhiều loại văn bản được nhiều cấp ban hành, nhưng lại thiếu cơ chế cân nhắc toàn diện các lĩnh vực pháp luật khác nhau, nên mâu thuẫn và chồng chéo là khó tránh khỏi. Tính cồng kềnh, sự tồn tại các bất cập và mâu thuẫn làm giảm tính minh bạch của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu và khó áp dụng và vì thế, kém hiệu lực. Với hệ thống pháp luật như vậy, việc áp dụng, thực hiện không hề dễ dàng đối với cán bộ pháp luật có trình độ, chưa nói đến các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân.

Thứ hai, pháp luật thường xuyên thay đổi: Thực tế này là hệ quả tất yếu của việc chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Trong quá trình thể chế hoá các yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội, có không ít các quan điểm e ngại với những vấn đề mới, chỉ chấp nhận những vấn đề đã chín muồi, có sự đồng thuận cao, do đó khó tạo ra những đột phá và từ đó, có sự ổn định cần thiết. Thực tế này có nguyên nhân ở sự thiếu vắng những tầm nhìn và quan điểm chiến lược cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế – xã hội cụ thể của cả hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, nhiều văn bản pháp luật tuổi thọ rất ngắn, thậm chí mới ban hành đã phải tạm hoãn thực hiện hoặc phải sửa đổi, bổ sung. Pháp luật thường xuyên bị thay đổi, dẫn đến những khó khăn đáng kể trong việc thực hiện và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ xã hội, nhất là đối với các quan hệ kinh tế.

Thứ ba, rất nhiều văn bản pháp luật có tính quy phạm thấp: Điều đó được hiểu rằng các văn bản quy phạm pháp luật thiếu những quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Có những văn bản chứa đựng những quy định mang tính tuyên ngôn hơn là quy phạm pháp luật. Nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội đòi hỏi phải được điều chỉnh cụ thể, chi tiết thì pháp luật lại là văn bản pháp luật “khung”. Phần lớn các văn bản luật như vậy giao cho Chính phủ ban hành nghị định để cụ thể hoá. Nhiều nghị định của Chính phủ lại giao cho bộ, ngành, địa phương hướng dẫn thực hiện. Thực tế này đã dẫn đến tình trạng nảy sinh không ít mâu thuẫn giữa văn bản hướng dẫn và văn bản được hướng dẫn thi hành.  

Thứ tư, tính minh bạch của hệ thống pháp luật còn hạn chế: Công báo của Trung ương và các tỉnh đã đăng tải khá đầy đủ, kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật. Các phương tiện thông tin đại chúng, cả hệ thống chính trị và xã hội đã có nhiều cố gắng tuyên truyền, phổ biến rộng rãi pháp luật. Như vậy, xét ở khía cạnh khả năng tiếp cận thì tính minh bạch của hệ thống pháp luật được bảo đảm tốt hơn. Tuy nhiên, xét ở tính minh xác, tính minh định thì hệ thống pháp luật vẫn còn thiếu tính minh bạch. Chính hạn chế này khiến các chủ thể thực sự lúng túng khi thực hiện hay áp dụng pháp luật. Quy trình xây dựng pháp luật vẫn chưa tạo được cho công chúng những tiếp cận và tham gia cần thiết. Các ý kiến của chuyên gia, của các nhà khoa học nói riêng và của công chúng nói chung chưa thực sự được cân nhắc và tiếp thu. Mặt khác, tính tích cực công dân tham gia xây dựng pháp luật nhìn chung chưa cao.

Thứ năm, tính hệ thống của pháp luật còn rất hạn chế: Các văn bản luật, các văn bản dưới luật khác nhau chưa thực sự tạo thành một chỉnh thể với những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Những mâu thuẫn giữa Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Bộ luật Dân sự về một số vấn đề (như: Hiệu lực các giao dịch, về căn cứ xác định sở hữu, đăng ký quyền sở hữu) mà công luận nêu lên gần đây là ví dụ cho tính hệ thống thấp của pháp luật hiện hành của nước ta./.

Một số yêu cầu cơ bản của hệ thống pháp luật Việt Nam
Trả lời

Pháp luật là nền tảng của Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ là hệ thống pháp luật làm nền tảng cho Nhà nước pháp quyền phải như thế nào? Đương nhiên, một hệ thống pháp luật với những quy định hạn chế quyền tự do, dân chủ của nhân dân, cản trở sự tiến bộ xã hội, công lý không được bảo đảm, chưa kể đến việc thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, thì không thể trở thành nền tảng của Nhà nước pháp quyền, bởi vì không đáp ứng được yêu cầu thứ hai của Nhà nước pháp quyền là bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân và công lý. Như vậy, khi tiếp cận pháp luật từ góc độ Nhà nước pháp quyền, có thể nhận diện được một số yêu cầu sau đây đối với hệ thống pháp luật:

  • Tính hệ thống: Tính hệ thống cũng có những khía cạnh tương đồng với tính nhất quán. Tuy nhiên, tính nhất quán của pháp luật hàm chứa khía cạnh nội dung và chính sách, trong khi đó, tính hệ thống được thể hiện nhiều qua cấu trúc, cách sắp xếp, phân loại thứ bậc, hiệu lực của quy phạm pháp luật;
  • Tính quy phạm của pháp luật: Bản thân pháp luật là hệ thống các quy phạm, tức là các chuẩn mực. Giá trị của pháp luật chính là tạo ra các chuẩn mực cho các chủ thể khác nhau trong đời sống xã hội. Nếu pháp luật không chứa đựng các chuẩn mực thì ý nghĩa của nó trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội là không lớn;
  • Tính ổn định của pháp luật: Đây là yêu cầu cần thiết, bởi không thể thường xuyên đảo lộn các quan hệ xã hội bằng việc thay đổi pháp luật. Ngạn ngữ Anh có câu: “Pháp luật thay đổi thường xuyên thì tệ hơn là không có pháp luật”;
  • Tính nhất quán, tính hệ thống của pháp luật: Pháp luật phải có tính nhất quán, thể hiện ở chỗ các văn bản pháp luật trong cùng một lĩnh vực, có khi trong nhiều lĩnh vực khác nhau đều phải bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể. Ví dụ, quyền sở hữu của công dân được Hiến pháp quy định phải được bảo đảm bởi các luật và văn bản dưới luật. Các văn bản pháp luật phải quy định trách nhiệm cho các cơ quan Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện được quyền sở hữu những gì mà pháp luật không cấm;
  • Tính minh bạch: Tính minh bạch của pháp luật là một đòi hỏi rất quan trọng. Cũng có quan điểm cho rằng, tính minh bạch của pháp luật thể hiện ở việc pháp luật được công bố, được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Quan niệm này không sai, song chưa toàn diện, chưa đầy đủ. Tính minh bạch của pháp luật còn thể hiện ở sự minh xác, sự minh định, tính hệ thống và nhất quán. Một hệ thống pháp luật cồng kềnh, khó tiếp cận, khó hiểu, khó vận dụng và chứa đựng những mâu thuẫn nội tại không thể được coi là minh bạch và không thể trở thành nền tảng cho Nhà nước pháp quyền. Như vậy, bản chất của Nhà nước pháp quyền chính là sự ngự trị của pháp luật, ở tính thượng tôn pháp luật trong việc tổ chức toàn bộ đời sống kinh tế, xã hội của một quốc gia. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đáp ứng những yêu cầu nêu trên. Xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện là đòi hỏi và cũng là điều kiện tiên quyết của Nhà nước pháp quyền. Không thể có Nhà nước pháp quyền ở bất cứ một quốc gia nào, nếu như ở đó Nhà nước chưa được tổ chức và hoạt động trên nền tảng của một hệ thống pháp luật có thể bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý;
  • Không hồi tố: Bảo đảm không hồi tố là một trong những đòi hỏi của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền. Giá trị nhân đạo của yêu cầu không hồi tố thể hiện ở chỗ không thể bắt một cá nhân phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi mà khi thực hiện người đó không thể biết rằng, trong tương lai đó sẽ là hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, về cơ bản, nguyên tắc pháp luật trong Nhà nước pháp quyền không có giá trị hồi tố. Một số quy phạm pháp luật nhất định có thể có giá trị hồi tố, nhưng chỉ trong trường hợp việc hồi tố đó có lợi cho những chủ thể có liên quan.
Tiêu chí hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
Trả lời

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang được hiện thực hoá trong thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà nước và các thiết chế xã hội. Điều quan trọng cần được nhấn mạnh khi nói về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà chúng ta chủ trương xây dựng, chính là sự vận dụng về cơ bản toàn bộ các tiêu chí của Nhà nước pháp quyền nói chung và những giá trị riêng của một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những nghiên cứu khác nhau cho thấy, hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có những tiêu chí riêng sau đây:

1. Hướng tới sự bình đẳng, công bằng xã hội

Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ chú trọng bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý mà còn đặc biệt chú trọng đến sự bình đẳng xã hội, công bằng xã hội. Trong một Nhà nước theo chế độ pháp trị, pháp luật mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền bao gồm một tập hợp các quy định mà nếu thiếu chúng thì không thể có sự cùng tồn tại trong hoà bình và tự do. Với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì giá trị của pháp luật phải bổ sung thêm yếu tố là bình đẳng xã hội, công bằng xã hội. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ bảo đảm cá nhân, tổ chức cùng tồn tại trong sự hoà hợp và tự do mà cả trong sự bình đẳng, công bằng xã hội, chống lại mọi sự phân biệt giàu nghèo, sự thống trị của chủ nghĩa tự do cực đoan.

2. Hệ thống pháp luật phải thể hiện được ý trí của toàn dân

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thể hiện được ý chí của nhân dân mà người đại diện là tổ chức chính trị được nhân dân thừa nhận và sự thừa nhận đó đã trở thành nguyên tắc hiến định trong hệ thống pháp luật nước ta. Do đó, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải là sự thể chế hoá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Thực tế cho thấy, những thành tựu của quá trình xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam trong hơn 20 năm qua gắn chặt với quá trình hoàn thiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Chính những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, chẳng hạn về phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh, đã làm cơ sở cho sự hình thành những quan điểm và định hướng chiến lược cho sự phát triển của hệ thống pháp luật của đất nước. Văn kiện tập trung nhiều quan điểm và giải pháp chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chính là Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

Xuất phát từ những nghiên cứu toàn diện về hệ thống pháp luật, nhất là những bất cập của nó nhìn từ những yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW, trong đó đã đánh giá: “Hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu”. Trong số những nguyên nhân chính của những yếu kém nêu trên Nghị quyết nhấn mạnh đến sự thiếu vắng tầm nhìn chiến lược. Vì vậy, Nghị quyết số 48-NQ/TW đã xác định nhiều quan điểm, định hướng và giải pháp chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, với sáu định hướng cho việc xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật mang tính chiến lược và khoa học cao; hai nhóm giải pháp thực hiện có tính khả thi cao (nhóm giải pháp xây dựng pháp luật và nhóm giải pháp thực hiện pháp luật). Từ đó, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là việc xây dựng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội hàng năm và cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII có rất nhiều thuận lợi và thực sự đã mang tính định hướng chiến lược sâu sắc. Những nghiên cứu, đánh giá ban đầu ba năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW cho thấy giá trị to lớn của văn bản quan trọng này đối với hệ thống pháp luật nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu to lớn mà Nghị quyết số 48-NQ/TW mang lại thể hiện rất rõ nét trong lĩnh vực xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế./.

Thị trường bất động sản tiệm cận giá trị thực
Trả lời

Trong vòng 5 năm qua, chỉ số giá nhà ở trên thị trường bất động sản Hà Nội đã có sự sụt giảm đáng kể. Diễn biến này phản ánh thị trường đang bắt đầu hướng tới sự ổn định, ngày càng sát với giá trị thực hơn sau khi trải qua giai đoạn “sốt nóng”. Điều này được thể hiện bằng việc chỉ số giá nhà đang giảm đáng kể.
    
Sở Xây dựng Hà Nội vừa công bố Báo cáo chỉ số giá nhà ở chung cư trên thị trường Bất động sản Hà Nội quý IV/2016. Theo đó, khảo sát được thực hiện tại các quận: Ba Đình, Cầu Giấy, Tây Hồ, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hà Đông, Hoàng Mai, Long Biên, Thanh Xuân, Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm. Thành phần khảo sát gồm chung cư cao cấp, trung cấp và bình dân, lấy quý I/2011 làm thời điểm gốc để so sánh (riêng quận Hai Bà Trưng là quý IV/2013); thang điểm tại thời điểm gốc được tính là 100%.

Kết quả, chỉ số giá nhà ở chung cư tại Hà Nội đã có sự sụt giảm đáng kể trong 5 năm qua. Kết quả này phản ánh đúng diễn biến của thị trường khi chuyển từ giai đoạn ‘sốt nóng’ vào năm 2011 sang giai đoạn ‘đóng băng’ vào năm 2012-2013. Mặc dù thị trường bắt đầu có dấu hiệu hồi phục từ cuối năm 2014, sau đó tương đối ổn định trong năm 2015-2016, nhưng chỉ số giá vẫn trong xu hướng giảm nhẹ. So với thời điểm gốc thì Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm là hai khu vực có chỉ số giá nhà ở giảm mạnh nhất. Theo đó, chỉ số giá chung cư trung cấp tại quận Bắc Từ Liêm thời điểm quý IV/2016 chỉ còn 73,69%, trong khi chung cư trung cấp tại quận Nam Từ Liêm còn 74,47% và cao cấp còn 75,97%. Một chỉ số tương đồng nữa được ghi nhận tại phân khúc trung cấp tại quận Hoàng Mai với 75,27%.

Trong số các quận trung tâm cũ được khảo sát, Hai Bà Trưng là quận duy trì ổn định với chỉ số giá quý IV/2016 tại phân khúc trung cấp là 97,72%, giảm khoảng hơn 2% sau 3 năm được khảo sát. Tại quận Ba Đình chỉ số này là 84,45%, gần như giữ nguyên không thay đổi trong cả năm 2016 và giảm xấp xỉ 4% so với quý I/2015. Có điểm phần trăm thấp hơn một chút là chỉ số giá chung cư trung cấp tại quận Đống Đa quý IV/2016 với 79,23%, cũng giữ ổn định trong năm 2016 và giảm khoảng 3% so với quý I/2015.

Cũng theo báo cáo, chỉ số giá nhà ở tại một số khu vực tăng cao hơn so với đầu năm 2015. Cụ thể, là phân khúc chung cư cao cấp tại quận Thanh Xuân, quý IV/2016 đạt 95,50%, tăng khoảng 1,5% so với quý I/2015; phân khúc chung cư trung cấp tại quận Tây Hồ đạt 87,25%, tăng khoảng 1,25%; phân khúc chung cư cao cấp quận Tây Hồ đạt 80,22%, tăng hơn 2%; phân khúc chung cư bình dân quận Hoàng Mai đạt 85,77%, tăng gần 3%.

Mặc dù chỉ số giá nhà giảm trong 5 năm qua nhưng 2 năm gần đây, khu vực quận Cầu Giấy lại khá ổn định, với chỉ số giá dao động trong khoảng 88-89% ở phân khúc trung cấp, 78-79% ở phân khúc cao cấp; trong khi quận Hà Đông trên dưới 79% và quận Long Biên 85-86%.

Ổn định trong năm 2017
Chọn khoảng thời gian khảo sát dài hơn, báo cáo chỉ số giá của Công ty TNHH Savills Việt Nam lấy quý I/2009 làm thời điểm gốc và dùng thang điểm 100. Nếu so sánh với quý II-2011 – thời điểm giá bất động sản cao nhất, đạt xấp xỉ 140 điểm thì hiện tại giá bất động sản đã giảm xuống còn 104,3 điểm. Còn nếu so với cùng kỳ năm 2015 thì chỉ số giá cũng giảm 3,9 điểm. Tuy nhiên, báo cáo này đánh giá, từ giữa năm 2014, chỉ số giá nhà ở tương đối ổn định. Đáng chú ý, tỷ lệ hấp thụ trên thị trường đạt khoảng 31%, giảm khoảng 9% so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, phân khúc chung cư trung cấp có lượng bán ra lớn nhất trong 7 quý gần đây, chiếm tới 44% thị phần. Về thị trường trong năm 2017, báo cáo này đánh giá, thị trường Bất động sản sẽ tiếp tục duy trì ổn định cho dù nguồn cung tương lai lớn, tập trung vào phân khúc hạng trung và nhà ở giá rẻ, chủ yếu ở các quận Hoàng Mai, Thanh Xuân và Hà Đông.

Việc sụt giảm của chỉ số giá nhà ở trên thị trường bất động sản trong 5 năm qua được đánh giá là xu hướng tích cực, phản ánh thị trường đang hướng vào sự ổn định, đúng với giá trị thực sau khi trải qua giai đoạn ‘sốt nóng’ và ‘đóng băng’. Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Nguyễn Trần Nam nhận xét, thị trường bất động sản đã vượt qua giai đoạn khó khăn và đang dần hồi phục. Năm 2017 sẽ là thời của phân khúc nhà ở giá rẻ, phù hợp với sức thanh toán của thị trường, nhu cầu của đại đa số người dân, hướng tới thị trường bất động sản lành mạnh, bền vững.

Đánh giá về giai đoạn vừa qua, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà nhận định, với việc tái cấu trúc thị trường gắn với thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, thị trường bất động sản sau quãng thời gian dài trầm lắng đang dần hồi phục tích cực, và giữ vững sự ổn định này trong năm 2016. Tuy nhiên, hiện thị trường vẫn tồn tại sự mất cân đối nguồn cung, nhà ở cao cấp và một số sản phẩm nghỉ dưỡng dư thừa nhưng lại rất thiếu nhà ở xã hội, nhà ở thương mại giá rẻ. Do đó, qua phân tích một số yếu tố kinh tế – xã hội chủ yếu có thể tác động đến thị trường bất động sản, dự báo thị trường bất động sản trong năm 2017 sẽ tiếp tục xu hướng tăng trưởng ổn định, khả năng biến động lớn gần như không có.

Tuy nhiên xét về dài hạn, cần theo dõi chặt chẽ, kịp thời, đánh giá đúng tình hình diễn biến thị trường để đưa ra các chính sách tín dụng, tài khóa hợp lý, linh hoạt theo hướng vừa bảo đảm nguồn vốn trung, dài hạn cho phát triển nhà ở xã hội và nhà ở thương mại giá rẻ mà thị trường có nhu cầu cao, vừa kiểm soát tốt nguồn vốn đổ vào phân khúc bất động sản cao cấp, rà soát hạn mức tín dụng hợp lý đối với các dự án khu nghỉ dưỡng… nhằm bảo đảm hiệu quả đầu tư, tránh gia tăng nợ xấu.

(Theo Hà Nội mới)

Hệ thống pháp luật Việt Nam
Trả lời

1. Khái niệm hệ thống pháp luật Việt Nam.

Pháp luật chính là một hệ thống thể hiện ý chí của Nhà nước, của giai cấp cầm quyền cho nên pháp luật ở mọi quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng không phải được sắp xếp theo một cách ngẫu nhiên, tuỳ tiện mà được sắp xếp theo một trình tự rất chặt chẽ do những yếu tố khách quan quy định. Dưới góc độ đó, hệ thống pháp luật có một số những đặc điểm sau:

– Tính khách quan: Tính khách quan của hệ thống pháp luật liên hệ chặt chẽ với các đặc điểm trên và được thể hiện ở chỗ: sự hình thành các bộ phận cấu thành của nó được tồn tại trong thực tế khách quan. Không thể đặt ra, sắp xếp các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật, ngành luật một cách chủ quan không tính đến hoặc không nghiên cứu đầy đủ cơ cấu và sự phát triển các quan hệ xã hội đang tồn tại trên thực tế khách quan, bởi các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của pháp luật;

– Tính thống nhất và tính hài hoà: Các quy phạm pháp luật không mâu thuẫn với nhau mà tồn tại theo thứ bậc và phối hợp chặt chẽ với nhau. Các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp và không được trái với các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước cấp trên ban hành. Nhiều quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp dưới là sự cụ thể hoá các quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp cao hơn;

– Sự phân chia hệ thống pháp luật thành các bộ phận cấu thành: Với tư cách là một hệ thống pháp luật được chia ra các yếu tố cấu thành là các ngành luật, chế định pháp luật. quy phạm pháp luật. Đặc điểm này là tất yếu bởi vì: tổng thể các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, trong mỗi lĩnh vực như thế lại có các nhóm quan hệ xã hội có tính độc lập tương đối với nhau. Chính sự hình thành những lĩnh vực và nhóm quan hệ xã hội đã quy định sự phân chia hệ thống pháp luật ra các bộ phận cấu thành./.

Có nhiều quan điểm khác nhau về hệ thống pháp luật Việt Nam nhưng quan điểm được giới Khoa học pháp lý đánh giá cao là: “ Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật và được thể hiện trong các văn bản do cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành theo những hình thức, thủ tục nhất định để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam”. Như vậy, hệ thống pháp luật được hiểu là chỉnh thể bao gồm các bộ phận có liên quan mật thiết với nhau, được sắp xếp theo một trình tự logíc, khách quan và khoa học. Theo đó, hệ thống pháp luật là một phạm trù thể hiện cấu trúc bên trong và hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật. cụ thể:

– Cấu trúc bên trong: Là mối liên hệ bên trong giữa các ngành luật gọi là hệ thống các ngành luật, hệ thống các ngành luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất và phối hợp với nhau, được phân chia thành các ngành luật, chế định pháp luật và các quy phạm pháp luật ở các cấp độ khác nhau;

– Quy phạm pháp luật: Là những quy tắc xử sự trong các trường hợp cụ thể do Nhà nước quy định có tính chất bắt buộc chung. Đây là bộ phận nhỏ nhất của hệ thống, mang tính cụ thể cũng như tính khái quát. Các bộ phận khác của hệ thống pháp luật đều được hình thành do sự kết hợp của các quy phạm pháp luật. Ý chí của Nhà nước thể hiện trong pháp luật và được mô hình hoá bởi các quy phạm pháp luật;

– Chế định pháp luật: Là một nhóm những quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội cùng loại có liên hệ mật thiết với nhau;

– Ngành luật: Bao gồm các chế định pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội có chung một tính chất. Dựa vào tính chất giống nhau, gần gũi mà có thể xếp các nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất thành một ngành luật và trở thành đối tượng điều chỉnh chung của ngành luật. Dựa vào đối tượng điều chỉnh của một ngành luật để tiến hành hệ thống hoá các quy phạm pháp luật thành các hệ thống pháp luật theo từng ngành, thuận tiện cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật;

– Hình thức biểu hiện bên ngoài: Là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật được thể hiện thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Mỗi loại văn bản có giá trị pháp lý cao thấp khác nhau nhưng đều thuộc vào những ngành luật nhất định.

2. Những đặc điểm chung của hệ thống pháp luật Việt Nam

Pháp luật  chính là một hệ thống thể hiện ý chí của Nhà nước, của giai cấp cầm quyền cho nên pháp luật ở mọi quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng không phải được sắp xếp theo một cách ngẫu nhiên, tuỳ tiện mà được sắp xếp theo một trình tự rất chặt chẽ do những yếu tố khách quan quy định. Dưới góc độ đó, hệ thống pháp luật có một số những đặc điểm sau:

  • Tính khách quan: Tính khách quan của hệ thống pháp luật liên hệ chặt chẽ với các đặc điểm trên và được thể hiện ở chỗ: sự hình thành các bộ phận cấu thành của nó được tồn tại trong thực tế khách quan. Không thể đặt ra, sắp xếp các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật, ngành luật một cách chủ quan không tính đến hoặc không nghiên cứu đầy đủ cơ cấu và sự phát triển các quan hệ xã hội đang tồn tại trên thực tế khách quan, bởi các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của pháp luật;

  • Tính thống nhất và tính hài hoà: Các quy phạm pháp luật không mâu thuẫn với nhau mà tồn tại theo thứ bậc và phối hợp chặt chẽ với nhau. Các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp và không được trái với các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước cấp trên ban hành. Nhiều quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp dưới là sự cụ thể hoá các quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp cao hơn;

  • Sự phân chia hệ thống pháp luật thành các bộ phận cấu thành: Với tư cách là một hệ thống pháp luật được chia ra các yếu tố cấu thành là các ngành luật, chế định pháp luật. quy phạm pháp luật. Đặc điểm này là tất yếu bởi vì: tổng thể các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, trong mỗi lĩnh vực như thế lại có các nhóm quan hệ xã hội có tính độc lập tương đối với nhau. Chính sự hình thành những lĩnh vực và nhóm quan hệ xã hội đã quy định sự phân chia hệ thống pháp luật ra các bộ phận cấu thành./.

Tổng quan các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Trả lời

Theo quy định của Luật doanh nghiệp Việt Nam hiện hành, các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam khá đa dạng. Sự đa dạng này là tạo nên sự sôi động trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tuy nhiên nhiều nhà khởi nghiệp vẫn đang loay hoay để chọn cho mình một loại hình phù hợp. Vì vậy, trong số các loại hình doanh nghiệp đó, để chọn được loại hình doanh nghiệp phù hợp với định hướng  thành lập và hoạt động doanh nghiệp cũng như tình hình thực tế, người thành lập doanh nghiệp cần tìm hiểu và nắm vững được bản chât, ưu điểm và nhược điểm của từng loại hình doanh nghiệp. Trong phạm vi bài viết này xin được trình bày về một số các loại hình doanh nghiệp phổ biến hiện nay.

* Doanh nghiệp tư nhân:

Doanh nghiệp tư nhân là một tổ chức kinh tế được đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp và thực hiện các hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ, có tài sản, có trụ sở giao dịch. Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật, có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của công ty. Thông thường, chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ trực tiếp quản lý và điều hành mọi hoạt động của công ty, tuy nhiên người chủ này vẫn có thể thuê người khác để thay mình làm công việc này. Doanh nghiệp tư nhân là công ty trách nhiệm vô hạn và không có tư cách pháp nhân.

+ Ưu điểm: Doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn chủ động trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân ít bị chịu sự ràng buộc chặc chẽ bởi pháp luật. Doanh nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng bởi chế độ trách nhiệm vô hạn.

+ Nhược điểm: Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân nên mức độ rủi ro của chủ doanh nghiệp tư nhân cao. Trách nhiệm vô hạn: Doanh nghiệp chịu trách nhiệm về các khoản nợ không những bằng tài sản công ty mà lẫn cả tài sản của chủ doanh nghiệp.

* Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên (TNHH 2 TV).

Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân được pháp luật thừa nhận (Luật Doanh nghiệp). Chủ sở hữu công ty và công ty là hai thực thể pháp lý riêng biệt. Trước pháp luật, công ty TNHH có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, chủ sở hữu công ty là thể nhân với các quyền và nghĩa vụ tương ứng với quyền sở hữu công ty.

Công ty trách nhiệm hữu hạn có không quá 50 thành viên cùng góp vốn thành lập và công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài chính khác trong phạm vi nghĩa vụ tài sản của công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn.

+ Ưu điểm: Chế độ trách nhiệm hữu hạn: Công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoảng nợ nằm trong phạm vi số vốn góp vào công ty nên ít gây rủi ro cho người góp vốn.

Chế độ chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư dễ dàng kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của người lạ vào công ty.

+ Nhược điểm: Uy tín của công ty trước đối tác phần nào bị ảnh hưởng bởi chế độ trách nhiệm hữu hạn của các thành viên; mặt khác công ty TNHH 2 thành viên không có quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn.

So với Doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh thì Công ty TNHH hai thành viên thành viên chịu sự điều chỉnh của pháp luật doanh nghiệp chặt chẽ hơn.

* Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH 1 TV).

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một hình thức đặc biệt của công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.

Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát hành cổ phiếu.

Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác; trường hợp rút một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ đã góp ra khỏi công ty dưới hình thức khác  thì chủ sở hữu và cá nhân, tổ chức có liên quan phải liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty. Chủ sở hữu công ty không được rút lợi nhuận của công ty khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả.

Tùy thuộc quy mô và ngành, nghề kinh doanh, cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên bao gồm: Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc.

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu được tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai mô hình sau đây:
+ Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên;
+ Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên.
Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Trường hợp Điều lệ công ty không quy định khác, thì chức năng, quyền và nghĩa vụ của Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên thực hiện theo quy định của Luật này.
Các ưu điểm và nhược điểm của loại hình Công ty TNHH 1 thành viên mang nhiều nét tương đồng so với công ty TNHH 2 thành viên.

* Công ty hợp danh.

Công ty hợp danh là công ty trong đó phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung. Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn.

Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân, các thành viên có quyền quản lý công ty và tiến hành các hoạt động kinh doanh thay công ty, cùng nhau chịu trách nhiệm và nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn được chia lợi nhuận theo tỷ lệ tại quy định điều lệ công ty, các thành viên hợp danh có quyền lợi ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý công ty. Những ưu điểm và nhược điểm của công ty hợp danh.

+ Ưu điểm: Công ty hợp danh là kết hợp được uy tín cá nhân của nhiều người. Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh mà công ty hợp danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn hàng, đối tác kinh doanh. Việc điều hành quản lý công ty hợp danh không quá phức tạp do số lượng các thành viên ít và là những người có uy tín, tuyệt đối tin tưởng nhau.

+ Nhược điểm: Hạn chế của công ty hợp danh là do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên mức độ rủi ro của các thành viên hợp danh cao.

* Công ty cổ phần.

Công ty cổ phần là loại hình công ty, trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần được th��nh lập và tồn tại độc lập. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;

Công ty cổ phần có quyền lựa chọn tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai mô hình sau đây, trừ trường hợp pháp luật về chứng khoán có quy định khác:
– Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp công ty cổ phần có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì không bắt buộc phải có Ban kiểm soát;
– Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị. Các thành viên độc lập thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều hành công ty.
Trường hợp chỉ có một người đại diện theo pháp luật, thì Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty; trường hợp Điều lệ không có quy định khác thì Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp có hơn một người đại diện theo pháp luật, thì Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty, có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra ngoài theo quy định của pháp luật về chứng khoán.

Những ưu và nhược điểm của Công ty cổ phần.

+ Ưu điểm: Chế độ trách nhiệm hữu hạn: Công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoảng nợ trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông không cao.

Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các lĩch vực, ngành nghề.

Cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty.

Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn vì vậy khả năng huy động vốn rất cao.

Việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng lớn.

+ Nhược điểm: Việc quản lý và điều hành công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ động đối kháng nhau về lợi ích.

Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán doanh nghiệp.

Trên đây là phần trình bày tổng quan về các loại hình doanh nghiệp phổ biến hiện nay theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Hi vọng những phần trình bày và phân tích những đặc điểm của các loại hình doanh nghiệp trong bài viết này có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các doanh nghiệp./.

Những quy định mới của Luật Kinh doanh bất động sản 2014 về hoạt động kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai
Trả lời

Luật Kinh doanh bất động sản 2014 ra đời thay thế Luật Kinh doanh bất động sản 2006, trong đó đã có nhiều sửa đổi, và bổ sung những vấn đề mới đáng lưu ý và phù hợp với thực tiễn hoạt động kinh doanh bất động sản tại Việt Nam trong thời gian gần đây. Đặc biệt, Luật đã sửa đổi và bổ sung những vấn đề liên quan đến kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai, đây là một vấn đề khá mới và nổi bật của Luật Kinh doanh bất động sản 2014.

Thứ nhất, bất động sản hình thành trong tương lai được bổ sung vào các loại bất động sản được đưa vào kinh doanh. Đây là một trong những điểm mới quan trọng của Luật Kinh doanh bất động sản 2014, cụ thể Điều 5 quy định: Nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai của tổ chức cá nhân là một trong những loại bất động sản được đưa vào kinh doanh.

Thứ hai, quy định về điều kiện của bất động sản hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh theo khoản 1 Điều 55 Luật Kinh doanh bất động sản 2014, cụ thể điều kiện là : Phải có giấy tờ về quyền sử dụng đất, hồ sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Giấy phép xây dựng đối với trường hợp phải có Giấy phép xây dựng, giấy tờ về nghiệm thu việc hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương ứng theo dự án.
Trường hợp đối với bất động sản hình thành trong tương lai là chung cư, tòa nhà hỗn hợp có mục đích để ở thì phải có biên bản nghiệm thu đã hoàn thành xong phần móng của tòa nhà đó.

Thứ ba, phải thực hiện bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai. Có thể nói đây là một trong những điểm mới nổi bật về vấn đề kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai của Luật Kinh doanh bất động sản 2014. Nội dung về bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai quy định tại Điều 57 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 như sau:

Nhà ở hình thành trong tương lai trước khi bán, cho thuê mua thì phải được sự bảo lãnh của ngân hàng có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư đối với khách hàng trong trường hợp chủ đầu tư không bàn giao nhà ở theo đúng tiến độ đã cam kết với khách hàng; danh sách ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh sẽ do ngân hàng Nhà nước công bố.

Giữa ngân hàng bảo lãnh và chủ đầu tư phải thực hiện thành lập hợp đồng bảo lãnh, và chủ đầu tư phải có trách nhiệm gửi bản sao hợp đồng bảo lãnh cho bên mua, bên thuê mua khi ký kết hợp đồng mua, thuê mua. Thời hạn của hợp đồng bảo lãnh là khi nhà ở được giao cho bên mua, bên thuê mua; Trường hợp chủ đầu tư không giao đúng nhà ở theo tiến độ cam kết, bên mua, thuê mua có yêu cầu thì bên ngân hàng bảo lãnh phải có trách nhiệm hoàn lại số tiền ứng trước và các khoản tiền khác cho khách hàng theo hợp đồng mua bán, thuê mua nhà và hợp đồng bảo lãnh.

Thứ tư, Luật Kinh doanh bất động sản 2014 cũng quy định tương đối chi tiết về việc thanh toán trong mua bán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai. Cụ thể :
Bên mua, thuê mua thực hiện thanh toán nhiều lần, lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng; việc thanh toán những lần tiếp theo phải phù hợp vào tiến độ xây dựng song không quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao nhà, công trình xây dựng; trường hợp bên bán , bên cho thuê mua là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tổng số thanh toán không quá 50% giá trị hợp đồng.

Trường hợp chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì không được thu quá 95% giá trị hợp đồng. Giá trị còn lại được thanh toán khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Có thể nói, Luật Kinh doanh bất động sản 2014 đã có nhều quy định mới và tích cực về vấn đề kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai, đây là một vấn đề khá mới và khá “nóng” đối trong hoạt động kinh doanh bất động sản trong những năm gần đây.                                                                                                                 

 (Sưu tầm)

Định hướng đầu tư tại Việt Nam
Trả lời

Sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã và đang đạt được nhiều những thành tựu quan trọng như nền kinh tế Việt Nam từ một nước nghèo chậm phát triển nay đã tiến lên thành thoát nghèo và là một trong những nước đang phát triển, ngoài ra thành tự trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc mở cửa thị trường dẫn đến tự do hóa thương mại và đưa Việt Nam hội nhập vào thị trường quốc tế một cách nhanh chóng. Vì vậy nhu cầu về nguồn vốn để phát triển kinh tế thị trường ngày càng cần thiết hơn bao giờ hết. Theo thống kê về ngồn vốn FDI cho thấy dòng vốn FDI luôn là động lực quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong suốt hơn 26 năm qua. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) luôn phát triển mạnh và là một thị trường năng động cho các doanh nghiệp phát triển. Cùng với sự tác động tích cực tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế, FDI còn đóng góp vào nguồn thu thuế của nhà nước, thúc đẩy các nhà sản xuất trong nước nâng cao năng lực trình độ tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh. Sơ qua những số liệu về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong những năm qua.  Trong 26 năm từ 1988-2016,  tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đến gần cuối năm 2016 đã đạt khoảng hơn  290 tỷ USD, tổng vốn thực hiện đạt 150 tỷ USD, lĩnh vực công nghiệp chiếm tới gần 60%. Theo thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), đã có 116 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam và nhà đầu tư đã có mặt tại 63 tỉnh thành trên cả nước. Đầu tư nước ngoài đã tạo ra một phương thức thu hút đầu tư mới, góp phàn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khơi dậy hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước.

Nguồn vốn FDI vào Việt Nam đồng thời sẽ tạo ra các tác động tích cực đối với việc huy động các nguồn vốn khác như ODA, NGO, đồng thời kích thích thu hút vốn đầu tư trong nước. Cùng với  vấn đề tạo cho các doanh nghiệp trong nước được cơ hội tiếp cận khoa học – công nghệ, tiếp thu kỹ thuật hiện đại từ các nước công nghiệp phát triển. Kích thích doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ đa dạng hóa sản phẩm với giá cả cạnh tranh. Kích thích chuyển dịch cơ cấu tỷ trọng trong các nền kinh tế định hướng công nghiệp hóa. Theo thống kê hiện nay gần 60% vốn đầu tư tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo, tạo ra trên 50% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viến thông, dầu khí, điện tử, thép…

Mặt khác việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài còn đang gặp nhiều khó khăn và thách thức như, việc chuyển đổi cơ cấu tổ chức kinh tế, đầu tư diễn ra khó khăn. Các chính sách ưu tiên đầu tư vào công nghệ cao, thân thiện với môi trường không đạt được hiệu quả như dự kiến. Các khu công nghiệp khu công nghệ cao còn chưa có được sự đồng nhất, chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ diễn ra chậm chạp. Nguồn vốn đầu tư  cho các dự án còn khiêm tốn so với các nước phát triển lân cận như Thái lan, Malaixia, Inđônexia…Nhiều máy móc thiết bị còn lạc hậu gây ô nhiễm môi trường mất an toàn lao động. Ngoài ra tình trạng các doanh nghiệp kê khai nguồn thu lỗ, trốn thuế, gian lận thương mại trong nhiều năm gây thất thu nguồn ngân sách nhà nước. Các tranh chấp lao động, đình công diễn ra ngày càng nhiều, gây mất an ninh trật tự. Các vi phạm quy định về môi trường ngày càng nhiều.

Để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển bền vững chúng ta phải có những định hướng đầu tư, chính sách phát triển nhất quán, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư và có tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực. Đầu tư có chọn lọc và đi vào chiều sâu có tính lan tỏa. Tăng cường khung pháp lý bảo hộ cho nhà đầu tư, hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư thu hút các dự án công nghệ cao , có nguồn vốn đầu tư lớn. Nói không với những dự án tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường và công nghệ lạc hậu. Ngoài ra hoàn thiện các quy định pháp luật về đầu tư, tăng cường công tác quản lý của địa phương, cải cách thủ tục hành chính lấy người dân, doanh nghiệp làm đối tượng phục vụ. Thường xuyên theo dõi giám sát kiểm tra việc thực thi pháp luật của các cơ quan quản lý địa phương.

Tổng hợp điểm mới Nghị định 96/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Doanh nghiệp 2014
Trả lời

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 96/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật doanh nghiệp 2014. Theo đó, Nghị định  96/2015/NĐ-CP sẽ có hiệu lực từ ngày 08/12/2015 và thay thế Nghị định 102/2010/NĐ-CP.

Nghị định 96/2015/NĐ-CP và Nghị định 78/2015/NĐ-CP là 02 Nghị định quan trọng đối với các doanh nghiệp trong việc thực thi những cải cách, đổi mới quản lý hoạt động doanh nghiệp.

Trong bài viết tổng hợp điểm mới Nghị định 96/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật doanh nghiệp 2014 dưới đây, mình có sử dụng một số từ ngữ viết tắt.

Sau đây là chú thích:

– DN: doanh nghiệp.                                                                      – HĐTV: Hội đồng thành viên.

– DNTN: doanh nghiệp tư nhân.                                                 – HĐQT: Hội đồng quản trị

– TNHH: trách nhiệm hữu hạn.                                                   – DNXH: doanh nghiệp xã hội.               

– CTCP: Công ty cổ phần.                                                             – VPĐD: văn phòng đại diện.

1. Phạm vi điều chỉnh

Nghị định này hướng dẫn chi tiết các nội dung sau của Luật doanh nghiệp 2014.

– Tiêu chí, quyền và nghĩa vụ của DNXH.

– Con dấu DN.

– Công ty mẹ, công ty con.

– Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý hoạt động DN.

(Căn cứ Điều 1 Nghị định 96/2015/NĐ-CP)

2. Đối tượng áp dụng

Nghị định này áp dụng cho tất cả các loại hình DN, đồng thời, không áp dụng với loại hình hộ kinh doanh như Nghị định 102/2010/NĐ-CP hiện nay.

(Căn cứ Điều 1 Nghị định 96/2015/NĐ-CP)

3. Quy định về con dấu

Thứ nhất, quy định về con dấu tại Nghị định này áp dụng với các CTCP, công ty TNHH, công ty hợp danh và DNTN đăng ký DN theo Luật doanh nghiệp 2014, Luật đầu tư 2014.

Tổ chức, đơn vị được thành lập theo các luật sau không áp dụng quy định về con dấu tại Nghị định này mà thực hiện theo quy định hiện hành về quản lý và sử dụng con dấu:

 + Luật Công chứng.

 + Luật Luật sư.

 + Luật Giám định tư pháp.

 + Luật Kinh doanh bảo hiểm.

  + Luật Chứng khoán.

  + Luật hợp tác xã.

Thứ hai, quy định về số lượng, hình thức, nội dung mẫu con dấu DN.

Chủ DNTN đối với DNTN, HĐTV đối với công ty hợp danh, HĐTV hoặc Chủ tịch công ty với công ty TNHH, HĐQT đối với CTCP quyết định số lượng, hình thức, nội dung và mẫu con dấu, việc quản lý và sử dụng con dấu, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác.

Nội dung Điều lệ hoặc Quyết định về con dấu của DN phải bao gồm:

  + Mẫu con dấu, gồm: Hình thức, kích cỡ, nội dung và màu mực dấu.

  + Số lượng con dấu.

  + Quy định về quản lý và sử dụng con dấu.

Mẫu con dấu DN được thể hiện dưới 01 hình thức cụ thể (hình tròn, hình đa giác hoặc hình dạng khác).

Mỗi DN có một mẫu con dấu thống nhất về nội dung, hình thức, kích cỡ.

Thông tin về mã số DN và tên DN trong nội dung mẫu con dấu được thực hiện theo Điều 30 và Khoản 1 Điều 38 Luật doanh nghiệp 2014.

Cụ thể:

Mã số DN:

  + Là dãy số được tạo bởi Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký DN, được cấp cho DN khi thành lập và được ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký DN. Mỗi DN có một mã số duy nhất và không được sử dụng lại để cấp cho DN khác.

  + Mã số DN được dùng để thực hiện các nghĩa vụ về thuế, thủ tục hành chính và quyền, nghĩa vụ khác.

Tên DN:

Tên tiếng Việt của DN bao gồm hai thành tố theo thứ tự sau đây:

Loại hình doanh nghiệp

Tên riêng

Tên loại hình doanh nghiệp được viết là:

– “công ty trách nhiệm hữu hạn” hoặc “công ty TNHH” đối với công ty trách nhiệm hữu hạn.

– “công ty cổ phần” hoặc “công ty CP” đối với công ty cổ phần.

– “công ty hợp danh” hoặc “công ty HD” đối với công ty hợp danh.

– “doanh nghiệp tư nhân”, “DNTN” hoặc “doanh nghiệp TN” đối với doanh nghiệp tư nhân.

Tên riêng được viết bằng các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt, các chữ F, J, Z, W, chữ số và ký hiệu.

 

Ngoài thông tin nêu trên, DN có thể bổ sung thêm ngôn ngữ, hình ảnh khác vào nội dung mẫu con dấu của DN trừ trường hợp không được sử dụng theo quy định.

Thứ ba, quy định về số lượng, hình thức, nội dung mẫu con dấu của chi nhánh, VPĐD

Chủ DNTN đối với DNTN, HĐTV với công ty hợp danh, HĐTV hoặc Chủ tịch công ty với công ty TNHH, HĐQT với CTCP quyết định số lượng, hình thức, nội dung và mẫu con dấu, việc quản lý, sử dụng con dấu của chi nhánh, VPĐD, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác.

Nội dung mẫu con dấu của chi nhánh, VPĐD phải có tên chi nhánh, VPĐD theo quy định tại Khoản 1, 2 Điều 41 Luật doanh nghiệp 2014. Cụ thể:

  + Tên chi nhánh, VPĐD, địa điểm kinh doanh phải được viết bằng các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt, các chữ cái F, J, Z, W, chữ số và các ký hiệu.

   + Tên chi nhánh, VPĐD phải mang tên DN kèm theo cụm từ “Chi nhánh” đối với chi nhánh, cụm từ “Văn phòng đại diện” đối với VPĐD.

Ngoài thông tin nêu trên, DN có thể bổ sung thêm ngôn ngữ, hình ảnh khác vào nội dung mẫu con dấu của chi nhánh, VPĐD, trừ trường hợp không được sử dụng theo quy định.

Thứ tư, hình ảnh, ngôn ngữ không được sử dụng trong nội dung mẫu con dấu

DN không được sử dụng những hình ảnh, từ ngữ, ký hiệu sau trong nội dung hoặc làm hình thức mẫu con dấu:

 + Quốc kỳ, Quốc huy, Đảng kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 + Hình ảnh, biểu tượng, tên của nhà nước, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp.

 + Từ ngữ, ký hiệu và hình ảnh vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam.

DN chịu trách nhiệm bảo đảm tuân thủ quy định trên, pháp luật về sở hữu trí tuệ và pháp luật có liên quan khi sử dụng hình ảnh, từ ngữ, ký hiệu trong nội dung hoặc làm hình thức mẫu con dấu.

Tranh chấp giữa DN và các cá nhân, tổ chức khác có liên quan về từ ngữ, ký hiệu và hình ảnh dử dụng trong nội dung mẫu con dấu của DN được giải quyết tại Tòa án hoặc trọng tài.

DN phải chấm dứt việc sử dụng con dấu có từ ngữ, ký hiệu hoặc hình ảnh vi phạm quy định nêu trên và chịu trách nhiệm bồi thường các thiệt hại phát sinh theo quyết định có hiệu lực thi hành cùa Tòa án hoặc trọng tài.

Cơ quan đăng ký kinh doanh không chịu trách nhiệm thẩm tra nội dung mẫu con dấu DN khi giải quyết thủ tục thông báo mẫu con dấu DN.

Thứ năm, quản lý và sử dụng con dấu

Các DN đã thành lập trước 01/7/2015 tiếp tục sử dụng con dấu đã được cấp mà không phải thông báo mẫu con dấu cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Trường hợp DN làm thêm con dấu, thay đổi màu mực dấu thì thực hiện thủ tục thông báo mẫu con dấu theo quy định về đăng ký DN.

Trường hợp DN đã thành lập trước 01/7/2015 làm con dấu mới theo quy định tại Nghị định này thì phải nộp lại con dấu và Giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu cho cơ quan công an nơi đã cấp Giấy chứng nhận này. Cơ quan công an cấp giấy biên nhận đã nhận lại con dấu tại thời điểm tiếp nhận lại con dấu DN.

Trường hợp DN đã thành lập trước 01/7/2015 bị mất con dấu, mất Giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu thì DN được làm con dấu theo quy định tại Nghị định này, đồng thời, thông báo việc mất con dấu, mất Giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu cho cơ quan công an nơi đã cấp Giấy chứng nhận này.

DN phải thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh nơi DN có trụ sở chính để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký DN trong các trường hợp sau:

  + Làm con dấu lần đầu sau khi đăng ký DN.

  + Thay đổi số lượng, nội dung, hình thức mẫu con dấu và màu mực dấu.

  + Hủy mẫu con dấu.

Trình tự, thủ tục và hồ sơ thông báo mẫu con dấu thực hiện theo quy định về đăng ký DN.

(Căn cứ Điều 1, 12, 13, 14, 15 Nghị định 96/2015/NĐ-CP)

(Còn nữa – sẽ tiếp tục cập nhật cho đến khi hoàn thành)

4. Quy định về doanh nghiệp xã hội

Thứ nhất, chính sách phát triển đối với DNXH

Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thành lập DNXH có mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng.

DNXH được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư theo quy định pháp luật.

DNXH thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tương ứng với từng loại hình DN và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của Luật doanh nghiệp và Nghị định này.

Thứ hai, về vấn đề tiếp nhận viện trợ, tài trợ của DNXH

Tiếp nhận viện trợ phi chính phủ nước ngoài để thực hiện mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường theo quy định pháp luật về tiếp nhận viện trợ phi chính phủ nước ngoài.

Ngoài các khoản viện trợ trên, DNXH còn được tiếp nhận tài trợ bằng tài sản, tài chính và hỗ trợ kỹ thuật từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong nước và tổ chức nước ngoài đã đăng ký hoạt động tại Việt Nam để thực hiện mục tiêu giải quyết vấn đề xã hội, môi trường.

Trình tự, thủ tục tiếp nhận các khoản tài trợ bằng tài sản, tài chính và hỗ trợ kỹ thuật từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong nước và tổ chức nước ngoài đã đăng ký hoạt động tại Việt Nam như sau:

+ Việc tiếp nhận tài trợ phải lập thành văn bản bao gồm các nội dung sau:

   i. Thông tin về cá nhân, tổ chức tài trợ.

   ii. Loại tài sản, giá trị tài sản hoặc tiền tài trợ, thời điểm tài trợ.

   iii. Yêu cầu đối với DN tiếp nhận tài trợ, viện trợ .

   iv. Họ, tên và chữ ký của người đại diện có thẩm quyền của các bên

+ Trong hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày văn bản tiếp nhận tài trợ được ký kết, DN phải thông báo cho Sở Kế hoạch Đầu tư hoặc cơ quan quản lý viện trợ, tài trợ thuộc UBND cấp tỉnh nơi DN có trụ sở chính về việc tiếp nhận tài trợ, kèm theo thông báo phải có bản sao Văn bản tiếp nhận tài trợ.

Trường hợp văn bản tiếp nhận tài trợ có thay đổi, DNXH phải thông báo cho Sở Kế hoạch Đầu tư hoặc cơ quan quản lý viện trợ, tài trợ thuộc UBND cấp tỉnh nơi DN có trụ sở chính về những nội dung thay đổi theo trình tự, thủ tục nêu trên.

Thứ ba, về đăng ký DNXH

DNXH thực hiện đăng ký DN theo trình tự, thủ tục và hồ sơ tương ứng với từng loại hình DN theo quy định Luật doanh nghiệp 2014.

Tên DNXH được đặt theo quy định tại Điều 38, 39, 40, 42 Luật doanh nghiệp 2014 và có thể bồ sung thêm cụm từ “xã hội” vào tên riêng của DN. Cụ thể:

Tên DN:

Tên tiếng Việt của doanh nghiệp bao gồm hai thành tố theo thứ tự sau:

Loại hình doanh nghiệp

Tên riêng

Tên loại hình doanh nghiệp được viết là:

– “công ty trách nhiệm hữu hạn” hoặc “công ty TNHH” đối với công ty trách nhiệm hữu hạn.

– “công ty cổ phần” hoặc “công ty CP” đối với công ty cổ phần.

– “công ty hợp danh” hoặc “công ty HD” đối với công ty hợp danh.

– “doanh nghiệp tư nhân”, “DNTN” hoặc “doanh nghiệp TN” đối với doanh nghiệp tư nhân.

Tên riêng được viết bằng các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt, các chữ F, J, Z, W, chữ số và ký hiệu.

Tên doanh nghiệp phải được gắn tại trụ sở chính, chi nhánh, VPĐD, địa điểm kinh doanh của DN. Tên DN phải được in hoặc viết trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do DN phát hành.

Những điều cấm trong đặt tên DN:

Đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của DN đã đăng ký.

Chú thích tên trùng, tên gây nhầm lẫn:

+ Tên trùng là tên tiếng Việt của DN đề nghị đăng ký được viết hoàn toàn giống với tên tiếng Việt của DN đã đăng ký.

+ Các trường hợp sau đây được coi là tên gây nhầm lẫn với tên của DN đã đăng ký:

   i. Tên tiếng Việt của DN đề nghị đăng ký được đọc giống như tên DN đã đăng ký.

   ii. Tên viết tắt của DN đề nghị đăng ký trùng với tên viết tắt của DN đã đăng ký;

   iii. Tên bằng tiếng nước ngoài của DN đề nghị đăng ký trùng với tên bằng tiếng nước ngoài của DN đã đăng ký.

  iv. Tên riêng của DN đề nghị đăng ký chỉ khác với tên riêng của DN cùng loại đã đăng ký bởi một số tự nhiên, số thứ tự hoặc các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt và các chữ cái F, J, Z, W ngay sau tên riêng của DN đó.

  v. Tên riêng của DN đề nghị đăng ký chỉ khác với tên riêng của DN cùng loại đã đăng ký bởi ký hiệu “&”, “.”, “+”, “-”, “_”.

  vi. Tên riêng của DN đề nghị đăng ký chỉ khác với tên riêng của DN cùng loại đã đăng ký bởi từ “tân” ngay trước hoặc “mới” ngay sau hoặc trước tên riêng của DN đã đăng ký.

  vii. Tên riêng của DN đề nghị đăng ký chỉ khác với tên riêng của DN cùng loại đã đăng ký bởi từ “miền Bắc”, “miền Nam”, “miền Trung”, “miền Tây”, “miền Đông” hoặc từ có ý nghĩa tương tự.

Các trường hợp quy định tại mục iv, v, vi của khoản này không áp dụng đối với trường hợp công ty con của công ty đã đăng ký.

Sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp để làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó.

Sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Tên DN bằng tiếng nước ngoài và tên viết tắt của DN

Tên DN bằng tiếng nước ngoài là tên được dịch từ tên tiếng Việt sang một trong những tiếng nước ngoài hệ chữ La-tinh. Khi dịch sang tiếng nước ngoài, tên riêng của DN có thể giữ nguyên hoặc dịch theo nghĩa tương ứng sang tiếng nước ngoài.

Trường hợp DN có tên bằng tiếng nước ngoài, tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp được in hoặc viết với khổ chữ nhỏ hơn tên tiếng Việt của doanh nghiệp tại trụ sở chính, chi nhánh, VPĐD, địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp hoặc trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do DN phát hành.

Tên viết tắt của DN được viết tắt từ tên tiếng Việt hoặc tên viết bằng tiếng nước ngoài.

Thứ tư, công khai Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường của DNXH

DNXH phải thông báo Cam kết thực hiện này cho cơ quan đăng ký kinh doanh để công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký DN khi thành lập DN hoặc trong quá trình hoạt động.

Trường hợp nội dung Cam kết có sự thay đổi, DNXH phải thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh về nội dung thay đổi trong hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày quyết định thay đổi để công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký DN.

Kèm theo thông báo phải có Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường đã được sửa đổi, bổ sung.

Cơ quan đăng ký kinh doanh cập nhật thông tin vào hồ sơ DN và công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký DN trong hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo.

Cam kết được lập theo mẫu và phải bao gồm các nội dung sau:

+ Các vấn đề xã hội, môi trường, phương thức mà DN dự định thực hiện nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường đó,

 + Thời hạn thực hiện các hoạt động nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường.

 + Mức tỷ lệ % lợi nhuận giữ lại hằng năm được tái đầu tư để giải quyết vấn đề xã hội, môi trường.

 + Nguyên tắc và phương thức sử dụng các khoản viện trợ, tài trợ từ tổ chức, cá nhân, nguyên tắc và phương thức xử lý các khoản viện trợ, tài trợ còn dư khi DN giải thể hoặc chuyển đổi thành DN thông thường (nếu có).

 + Họ, tên, chữ ký của chủ DNTN với DNTN, thành viên hợp danh với công ty hợp danh, thành viên, cổ đông là cá nhân, người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của thành viên, cổ đông là tổ chức đối với công ty TNHH và CTCP.

Quyết định của HĐTV, Đại hội đồng cổ đông về thay đổi nội dung Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường phải được thông qua theo tỷ lệ biểu quyết quy định sau đối với DNXH là công ty TNHH và CTCP:

  + Được số phiếu đại diện ít nhất 75% tổng số vốn góp của các thành viên dự họp tán thành đối với quyết định bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ hoặc giá trị khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty; sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; tổ chức lại, giải thể công ty (với công ty TNHH).

  + Được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp tán thành (với CTCP).

Thứ năm, về chấm dứt Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường của DNXH

DNXH chấm dứt Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường trong các trường hợp sau:

+ Hết thời hạn Cam kết.

+ Vấn đề xã hội, môi trường trong Cam kết đã thay đổi hoặc không còn nữa.

+ Không thực hiện hay thực hiện không đầy đủ Cam kết và mức lợi nhuận giữ lại tái đầu tư.

+ Trường hợp khác theo quyết định của DN hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Trường hợp chấm dứt Cam kết, toàn bộ số dư tài sản hoặc tài chính còn lại của các khoản viện trợ, tài trợ đã được nhận phải chuyển lại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã viên trợ, tài trợ hoặc chuyển cho các DNXH khác, tổ chức khác có mục tiêu xã hội tương tự.

DNXH chỉ được chấm dứt nếu vẫn bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác sau khi đã xử lý số dư của khoản viện trợ, tài trợ mà DN đã nhận.

Quyết định của HĐTV, Đại hội đồng cổ đông về chấm dứt Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường phải được thông qua theo tỷ lệ biểu quyết quy định sau đối với DNXH là công ty TNHH và CTCP:

  + Được số phiếu đại diện ít nhất 75% tổng số vốn góp của các thành viên dự họp tán thành đối với quyết định bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ hoặc giá trị khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty; sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; tổ chức lại, giải thể công ty (với công ty TNHH).

  + Được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp tán thành (với CTCP).

DNXH phải thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh về việc chấm dứt Cam kết trong hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định chấm dứt để công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký DN. Kèm theo thông báo phải có các tài liệu sau:

  + Quyết định và bản sao biên bản họp của DN hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nếu có), trong đó nêu rõ lý do chấm dứt.

  + Thỏa thuận với cá nhân, tổ chức liên quan về xử lý số dư tài sản hoặc tài chính đối với nguồn viện trợ, tài trợ mà DNXH đã nhận (nếu có).

Cơ quan đăng ký kinh doanh cập nhật thông tin vào hồ sơ DN và công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký DN trong hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo.

Thứ sáu, về chuyển cơ sở bảo trợ xã hội, quỹ xã hội và quỹ từ thiện thành DNXH

Cơ sở bảo trợ xã hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện được dùng toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ để đăng ký DNXH sau khi có Quyết định cho phép chuyển đổi thành DNXH bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền đã cấp giấy phép thành lập cơ sở bảo trợ xã hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện.

DNXH sau khi được đăng ký đương nhiên kế thừa toàn bộ các quyền, lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ khác của cơ sở bảo trợ xã hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện.

Cơ sở bảo trợ xã hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện chấm dứt hoạt động kể từ ngày DNXH được cấp Giấy chứng nhận đăng ký DN.

Thứ bảy, về chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể đối với DNXH

Chia, tách, hợp nhất, sáp nhập với DNXH được thực hiện trong các trường hợp sau:

  + DNXH được chi, tác thành các DNXH.

  + Các DN, DNXH hợp nhất thành DNXH.

  + Sáp nhập DN, DNXH vào DNXH.

Hồ sơ, trình tự, thủ tục chia, tách, hợp nhất, sáp nhập với DNXH thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp.

Trường hợp giải thể, số dư tài sản hoặc tài chính còn lại với nguồn tài sản, tài chính mà DNXH đã nhận phải được trả lại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã viện trợ, tài trợ hoặc chuyển cho các DNXH khác, tổ chức khác có mục tiêu xã hội tương tự.

Hồ sơ, trình tự, thủ tục giải thể DNXH thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp. Trường hợp DNXH còn số dư tài sản hoặc tài chính với nguồn viện trợ, tài trợ đã nhận thì hồ sơ giải thể phải có Thỏa thuận với cá nhân, tổ chức liên quan về xử lý số dư tài sản hoặc tài chính với nguồn viện trợ, tài trợ mà DNXH đã nhận.

Thứ tám, trách nhiệm của chủ DNTN, thành viên, cổ đông DNXH

Chủ DNTN, thành viên, cổ đông DNXH chỉ được chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phần của mình cho tổ chức, cá nhân khác nếu họ có cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường.

Cổ đông đã ký tên trong Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường chỉ được chuyển nhượng cổ phần của mình theo quy định tại Khoản 3 Điều 119 Luật doanh nghiệp trong thời hạn Cam kết. Cụ thể:

“Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký DN, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó.”

DNXH phải duy trì mục tiêu xã hội, môi trường, mức lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư và nội dung khác ghi tại Cam kết trong suốt quá trình hoạt động.

Nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ Cam kết và mức lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư, DNXH phải hoàn lại toàn bộ các ưu đãi, khoản viện trợ, tài trợ dành riêng cho DNXH.

Đồng thời, chủ DNTN với DNTN, thành viên với công ty hợp danh và công ty TNHH, cổ đông với CTCP đã ký tên trong Cam kết và thành viên HĐQT CTCP chịu trách nhiệm liên đới hoàn lại các ưu đãi, tài trợ đã nhận và bồi thường các thiệt hại phát sinh trong trường hợp DNXH vi phạm khoản này.

Thứ chín, về công khai hoạt động DNXH

Trường hợp nhận ưu đãi, viện trợ, tài trợ, định kỳ hàng năm DNXH phải gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc cơ quan quản lý viện trợ, tài trợ thuộc UBND cấp tỉnh nơi DNXH có trụ sở chính Báo cáo đánh giá tác động xã hội đối với các hoạt động DN đã thực hiện chậm nhất 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính.

Báo cáo được lập theo mẫu và phải có các nội dung sau:

 + Tên, mã số DN.

 + Các khoản ưu đãi, viện trợ hoặc tài trợ đã nhận được.

 + Các hoạt động DN đã thực hiện trong năm, các vấn đề xã hội, môi trường mà DN đã giải quyết.

 + Các lợi ích và tác động xã hội mà DN đã đạt được và các nhóm đối tượng được hưởng lợi tương ứng, nêu rõ các số liệu chứng minh về tác động và lợi ích đã đạt được (nếu có).

Tổ chức, cá nhân được quyền yêu cầu Sở Kế hoạch Đầu tư hoặc cơ quan quản lý viện trợ, tài trợ thuộc UBND cấp tỉnh nơi DNXH có trụ sở chính cung cấp các thông tin, bản sao Báo cáo đánh giá tác động xã hội và Văn bản tiếp nhận viện trợ, tài trợ được lưu giữ tại cơ quan đó.

Sở Kế hoạch Đầu tư hoặc cơ quan quản lý viện trợ, tài trợ thuộc UBND cấp tỉnh có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tin theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân.

Thứ mười, về theo dõi, giám sát hoạt động DNXH

UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát đối với DNXH có trụ sở chính đặt tại tỉnh, thành phố mình.

Sở Kế hoạch Đầu tư hoặc cơ quan quản lý viện trợ, tài trợ thuộc UBND cấp tỉnh là cơ quan đầu mối giúp UBND cấp tỉnh trong việc theo dõi, giám sát với DNXH.

Việc theo dõi, giám sát DNXH thực hiện theo cách thức sau:

  + Yêu cầu DN báo cáo về việc tuân thủ Cam kết trong trường hợp cần thiết.

  + Trực tiếp hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra DN theo những nội dung Cam kết.

Theo dõi, giám sát với DNXH thực hiện theo trình tự, thủ tục sau:

  + Yêu cầu báo cáo về việc tuân thủ Cam kết phải được lập bằng văn bản. Trong đó, nêu rõ lý do, nội dung yêu cầu cụ thể, thời hạn và cách thức thực hiện các yêu cầu.

  + Cơ quan nhà nước chỉ được trực tiếp tiến hành kiểm tra DN ít nhất sau 15 ngày kể từ ngày gửi thông báo yêu cầu kiểm tra cho DN.

  + Trong hạn 05 ngàu làm việc kể từ ngày kết thúc kiểm tra DNXH, cơ quan kiểm tra phải có báo cáo bằng văn bản về kết quả kiểm tra. Báo cáo phải được gửi cho DNXH, UBND cấp tỉnh và các cơ quan có liên quan thuộc UBND cấp tỉnh.

(Căn cứ Điều 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 Nghị định 96/2015/NĐ-CP)

Còn nữa – sẽ tiếp tục cập nhật cho đến khi hoàn thành.

5. Hướng dẫn chi tiết một số vấn đề liên quan công ty mẹ, công ty con

Nội dung này đề cập đến hạn chế sở hữu chéo giữa các công ty.

– Góp vốn thành lập DN theo quy định tại Khoản 3 Điều 189 Luật doanh nghiệp 2014 “Các công ty con có cùng một công ty mẹ là doanh nghiệp có sở hữu ít nhất 65% vốn nhà nước không được cùng nhau góp vốn thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật này” bao gồm góp vốn, mua cổ phần để thành lập DN mới, mua phần vốn góp, cổ phần của DN đã thành lập.

– Sở hữu chéo là việc đồng thời hai DN có sở hữu phần vốn góp, cổ phần của nhau.

– Cùng nhau góp vốn thành lập DN theo quy định tại Khoản 3 Điều 189 Luật doanh nghiệp 2014 là trường hợp tổng số cổ phần, phần vốn góp của các công ty này sở hữu bằng hoặc lớn hơn 51% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông của công ty có liên quan.

– Chủ tịch công ty, HĐTV, HĐQT của các công ty có liên quan chịu trách nhiệm bảo đảm tuân thủ đúng quy định tại Điều 189 Luật doanh nghiệp khi quyết định góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của công ty khác.

Trong trường hợp này, Chủ tịch công ty hoặc thành viên HĐTV, thành viên HĐQT của công ty có liên quan cùng liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra cho công ty khi vi phạm quy định.

– Cơ quan đăng ký kinh doanh từ chối đăng ký thay đổi thành viên, cổ đông công ty nếu trong quá trình thụ lý hồ sơ phát hiện việc góp vốn, mua cổ phần thành lập DN hoặc chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp liên quan vi phạm quy định này.

– Các công ty không có cổ phần, phần vốn góp nhà nước nắm giữ đã góp vốn, mua cổ phần trước 01/7/2015 có quyền mua bán, chuyển nhượng, tăng, giảm phần vốn góp, số cổ phần nhưng không được làm tăng tỷ lệ sở hữu chéo hiện có.

(Căn cứ Điều 16 Nghị định 96/2015/NĐ-CP)

6. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong quản lý hoạt động DN

– Thứ nhất, nguyên tắc quản lý của cơ quan nhà nước với DN

Cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm hướng dẫn, hỗ trợ, tuyên truyền và tạo điều kiện thuận lợi để các DN tuân thủ đúng quy định pháp luật.

Cán bộ, công chức không được yêu cầu người thành lập DN nộp thêm các giấy tờ, đặt ra thêm các thủ tục, điều kiện ngoài quy định và có hành vi gây khó khăn, phiền hà với tổ chức, cá nhân trong tiếp nhận hồ sơ và giải quyết thủ tục cho DN.

Tăng cường phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan nhà nước về tình hình hoạt động của DN, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức có liên quan trong tiếp cận thông tin về hoạt động của DN được lưu trự tại cơ quan, đơn vị, trừ trường hợp bảo đảm bí mật theo quy định.

Mỗi cơ quan quản lý nhà nước từ cấp trung ương đến địa phương, cơ quan đại diện chủ sở hữu chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát hoạt động của các DN trong phạm vi chức năng, nhiệm vu được giao.

Hoạt động theo dõi, giám sát, thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan đại diện chủ sở hữu không được gây ảnh hưởng bất lợi hoặc cản trở hoạt động bình thường của DN.

Thứ hai, về phối hợp chia sẻ thông tin về hoạt động của DN giữa các cơ quan, đơn vị

Định kỳ hàng tháng, các cơ quan thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện gửi cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi DN có trụ sở chính các thông tin sau:

  + Các loại giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, giấy chứng nhận hoặc văn bản chấp thuận về điều kiện kinh doanh đã cấp cho DN, chi nhánh, VPĐD, người quản lý DN.

  + Quyết định xử lý vi phạm hoạt động kinh doanh của DN, chi nhánh, VPĐD, người quản lý DN.

  + Quyết định tạm dừng hoạt động, quyết định chấm dứt việc tạm dừng hoạt động kinh doanh.

  + Thông tin về vi phạm pháp luật thuế của DN.

Trong hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông tin quy định trên, cơ quan đăng ký kinh doanh cập nhật vào hồ sơ đăng ký DN có liên quan.

Thứ ba, về xây dựng hệ thống quản lý rủi ro về theo dõi và giám sát hoạt động của doanh nghiệp

UBND cấp tỉnh chủ động xây dựng cơ sở dữ liệu về tình hình hoạt động của DN, phương án, cách thức trao đổi thông tin với cơ quan có liên quan và công khai thông tin; xây dựng hệ thống quản lý rủi ro về theo dõi và giám sát hoạt động của doanh nghiệp trong phạm vi chức năng quản lý nhà nước của mình.

Hệ thống quản lý rủi ro về theo dõi và giám sát hoạt động của DN bao gồm các nội dung sau:

  + Bộ phận đầu mối chịu trách nhiệm quản lý hệ thống rủi ro.

  + Danh mục các rủi ro cần thiết phải theo dõi, giám sát.

  + Các mức độ rủi ro cần kiểm soát.

  + Phương thức cảnh báo, ngăn chặn và xử lý các rủi ro khi phát hiện.

  + Cách thức thu thập, trao đổi thông tin và cách thức đánh giá rủi ro.

 Định kỳ hằng tháng, Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc cơ quan khác theo quyết định của UBND cấp tỉnh làm đầu mối tổng hợp tình hình hoạt động và chấp hành pháp luật của doanh nghiệp để báo cáo UBND cấp tỉnh; đồng thời gửi các cơ quan thuộc UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện.

(Căn cứ Điều 17, 18, 19 Nghị định 96/2015/NĐ-CP)

Hết

112 điểm mới của Bộ luật Lao động 2012
Trả lời
(Nguồn thành viên phamthanhhuu tại
 
Các từ viết tắt:
HĐLĐ: Hợp đồng lao động
NLĐ: Người lao động
NSDLĐ: Người sử dụng lao động
XĐTH: Xác định thời hạn
 
 

STT

Bộ Luật Lao động cũ

Bộ Luật Lao động 2012

  1.  

Không quy định việc ký HĐLĐ với người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi.

Trường hợp NLĐ từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi thì việc giao kết HĐLĐ phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của NLĐ.

(Khoản 1 điều 18)

  1.  

HĐLĐ có thể được ký kết giữa NSDLĐ với người được uỷ quyền hợp pháp thay mặt cho nhóm NLĐ; trong trường hợp này hợp đồng có hiệu lực như ký kết với từng người.

(Khoản 2 điều 30)

Việc ký HĐLĐ với nhóm NLĐ thông qua người ủy quyền chỉ được ký với công việc theo mùa vụ hoặc công việc nhất định dưới 12 tháng.

(Khoản 2 điều 18)

  1.  

Không quy định về những hành vi NSDLĐ không được làm khi giao kết, thực hiện HĐLĐ

NSDLĐ không được giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của NLĐ; hoặc yêu cầu NLĐ đặt cọc cho việc thực hiện HĐLĐ.

(Điều 20)

  1.  

Khi hợp đồng lao động XĐTH, hợp đồng theo mùa vụ hoặc công việc nhất định dưới 12 tháng hết hạn mà NLĐ vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày HĐLĐ hết hạn, hai bên phải ký kết HĐLĐ mới; nếu không ký kết HĐLĐ mới, hợp đồng đã giao kết trở thành HĐLĐ không XĐTH.

(Khoản 2 điều 27)

Quy định rõ hơn trong trường hợp không ký tiếp HĐLĐ mới:

– Hợp đồng lao động XĐTH trở thành HĐLĐ không XĐTH;

– Hợp đồng theo mùa vụ hoặc công việc nhất định dưới 12 tháng trở thành HĐLĐ 24 tháng.

(Khoản 2 điều 22)

  1.  

HĐLĐ phải có những nội dung chủ yếu sau đây: công việc phải làm, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, địa điểm làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với người lao động.

(Khoản 1 điều 29)

Bổ sung quy định mới về HĐLĐ:

– Hình thức trả lương, thời hạn trả lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác;

– Chế độ nâng bậc, nâng lương;

– Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề.

(Khoản 1 điều 23)

  1.  

Nội dung HĐLĐ

(Điều 29)

Bổ sung quy định về nội dung HĐLĐ đối với:

– NLĐ làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ;

– NLĐ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp.

(Khoản 2, 3 điều 23)

  1.  

Không quy định về Phụ lục HĐLĐ

Bổ sung quy định về Phụ lục hợp đồng lao động.

(Điều 24)

  1.  

Không quy định về hợp đồng thử việc

Bổ sung khái niệm Hợp đồng thử viêc.

(Điều 26)

  1.  

Tiền lương của NLĐ trong thời gian thử việc ít nhất phải bằng 70% mức lương cấp bậc của công việc đó.

(Điều 32)

Tiền lương của NLĐ trong thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó.

(Điều 28)

  1.  

Tiền lương theo công việc mới ít nhất phải bằng 70% mức tiền lương cũ nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

(Khoản 3 điều 34)

Tiền lương theo công việc mới ít nhất phải bằng 85% mức tiền lương công việc cũ nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định.

 

  1.  

Các trường hợp được tạm hoãn thực hiện HĐLĐ.

(Khoản 1 điều 35)

Bổ sung thêm 2 trường hợp được tạm hoãn thực hiện HĐLĐ:

– NLĐ phải chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc;

– Lao động nữ mang thai nếu có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chứng nhận tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi.

(Khoản 3, 4 điều 32)

  1.  

Hết thời gian tạm hoãn HĐLĐ đối với các trường hợp quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 Điều 35, NSDLĐ phải nhận người lao động trở lại làm việc.

(Khoản 2 điều 35)

Quy định rõ thời hạn mà NSDLĐ phải nhận NLĐ trở lại làm việc.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm hoãn HĐLĐ đối với các trường hợp quy định tại Điều 32, NLĐ phải có mặt tại nơi làm việc và NSDLĐ phải nhận NLĐ trở lại làm việc, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác.

(Điều 33)

  1.  

Không quy định về việc sửa đổi, bổ sung HĐLĐ

Quy định về việc sửa đổi, bổ sung HĐLĐ:

– Trong quá trình thực hiện HĐLĐ, nếu bên nào có yêu cầu sửa đổi, bổ sung nội dung HĐLĐ thì phải báo cho bên kia biết trước ít nhất 3 ngày làm việc về những nội dung cần sửa đổi, bổ sung.

– Trong trường hợp hai bên thỏa thuận được thì việc sửa đổi, bổ sung HĐLĐ được tiến hành bằng việc ký kết phụ lục HĐLĐ hoặc giao kết HĐLĐ mới.

– Trong trường hợp hai bên không thoả thuận được việc sửa đổi, bổ sung nội dung HĐLĐ thì tiếp tục thực HĐLĐ đã giao kết.

(Điều 35)

  1.  

HĐLĐ chấm dứt trong những trường hợp sau đây:

– Hết hạn hợp đồng;

– Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng;

– Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng;

– NLĐ bị kết án tù giam hoặc bị cấm làm công việc cũ theo quyết định của Toà án;

– NLĐ chết; mất tích theo tuyên bố của Toà án.

(Điều 36)

Bổ sung thêm các trường hợp chấm dứt HĐLĐ:

– NLĐ đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu;

– NLĐ chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết;

– NSDLĐ là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; NSDLĐ không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động;

– NLĐ bị xử lý kỷ luật sa thải;

– NLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 37;

– NSDLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 38; NSDLĐ cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhật, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã.

(Điều 36)

  1.  

NSDLĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ.

(Điều 38)

*Bỏ quy định NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ khi:

– NLĐ bị xử lý kỷ luật sa thải;

– Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức chấm dứt hoạt động;

Để thống nhất với điều 36.

*Bổ sung quy định NSDLĐ đơn phưưong chấm dứt HĐLĐ khi:

– NLĐ không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại điều 33 (sau 15 ngày tạm hoãn HĐLĐ)

(Điều 38)

  1.  

NSDLĐ không được đơn phương chấm dứt HĐLĐ.

(Điều 39)

Bổ sung thêm trường hợp NSDLĐ không được đơn phương chấm dứt HĐLĐ:

– Nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

(Điều 39)

  1.  

Mỗi bên có thể từ bỏ việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước khi hết thời hạn báo trước. Khi hết thời hạn báo trước, mỗi bên đều có quyền chấm dứt HĐLĐ.

(Điều 40)

Bộ luật Lao động cũ quy định có sự mâu thuẫn vì đây là việc hủy bỏ việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ chứ không phải là chấm dứt HĐLĐ nên Bộ luật Lao động 2012 đã chỉnh sửa:

Mỗi bên đều có quyền huỷ bỏ việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước khi hết thời hạn báo trước nhưng phải thông báo bằng văn bản và phải được bên kia đồng ý.

(Điều 40)

18.

Nghĩa vụ của NSDLĐ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật.

(Điều 41)

Bổ sung thêm quy định: phải trả tiền bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm Y tế trong những ngày NLĐ không được làm việc.

(Khoản 1 điều 42)

Quy định khoản tiền bồi thường thêm ít nhất bằng hai tháng lương.

(Khoản 3 điều 42)

Bổ sung thêm quy định: Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong HĐLĐ mà NLĐ vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 điều 42, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.

(Khoản 4 điều 42)

19.

Trong trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ thì phảibồi thường chi phí đào tạo (nếu có) theo quy định của Chính phủ.

(Khoản 3 điều 41)

Cụm từ “bồi thường chi phí đào tạo” sửa thành “hoàn trả chi phí đào tạo”.

Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho NSDLĐ theo quy định tại Điều 62.

(Khoản 3 điều 43)

20.

Không quy định về nghĩa vụ của NSDLĐ trong trường hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế.

Bổ sung quy định về nghĩa vụ của NSDLĐ trong trường hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế.

(Điều 44)

21.

Không quy định về nghĩa vụ của NSDLĐ khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã.

Bổ sung quy định về nghĩa vụ của NSDLĐ khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã.

(Điều 45)

22.

Không quy định về phương án sử dụng lao động

Bổ sung quy định về phương án sử dụng lao động

(Điều 46)

23.

Không quy định về thời gian mà NSDLĐ phải báo trước cho NLĐ khi HĐLĐ XĐTH hết hạn.

Ít nhất 15 ngày trước ngày HĐLĐ XĐTH hết hạn, NSDLĐ phải thông báo bằng văn bản cho NLĐ biết thời điểm chấm dứt HĐLĐ.

(Khoản 1 điều 47)

24.

Trợ cấp thôi việc mới chỉ là “ghi nhận” còn văn bản hướng dẫn Bộ luật Lao động mới quy định chi tiết.

Dành 1 điều để quy định rõ về Trợ cấp thôi việc.

(Điều 48)

25.

Trợ cấp mất việc làm chỉ là “ghi nhận” còn văn bản hướng dẫn Bộ luật Lao động mới quy định chi tiết.

Dành 1 điều để quy định rõ về Trợ cấp mất việc làm.

(Điều 49)

26.

Không quy định về HĐLĐ vô hiệu

Bổ sung quy định về HĐLĐ vô hiệu.

* HĐLĐ vô hiệu toàn bộ khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

– Toàn bộ nội dung của HĐLĐ trái pháp luật;

– Người ký kết HĐLĐ không đúng thẩm quyền;

– Công việc mà hai bên đã giao kết trong HĐLĐ là công việc bị pháp luật cấm;

– Nội dung của HĐLĐ hạn chế hoặc ngăn cản quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của NLĐ.

* HĐLĐ vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của hợp đồng.

* Trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ nội dung của HĐLĐ quy định quyền lợi của NLĐ thấp hơn quy định trong pháp luật về lao động, nội quy lao động, thoả ước lao động tập thể đang áp dụng hoặc nội dung của HĐLĐ hạn chế các quyền khác của NLĐ thì một phần hoặc toàn bộ nội dung đó bị vô hiệu.

(Điều 50)

27.

 

Không quy định về “quấy rối tình dục”

Cấm quấy rối tình dục tại nơi làm việc.

(Khoản 2 điều 8)

NLĐ làm việc theo HĐLĐ XĐTH, HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn khi bị quấy rối tình dục.

(Điểm c khoản 1 điều 37)

Lao động là người giúp việc gia đình có nghĩa vụ tố cáo với cơ quan có thẩm quyền nếu NSDLĐ có hành vi quấy rối tình dục.

(Khoản 4 điều 182)

Nghiêm cấm NSDLĐ có hành vi quấy rối tình dục đối với lao động là người giúp việc gia đình.

(Khoản 1 điều 183)

28.

Không quy định về cho thuê lại lao động.

Quy định về Cho thuê lại lao động

(Điều 53)

Quy định về Doanh nghiệp cho thuê lại lao động

(Điều 54)

Quy định về Hợp đồng cho thuê lại lao động

(Điều 55)

Quy định về Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cho thuê lại lao động

(Điều 56)

Quy định về Quyền và nghĩa vụ của bên thuê lại lao động

(Điều 57)

Quy định về Quyền và nghĩa vụ của người lao động thuê lại

(Điều 58)