Thật khó để xác định logic của việc lựa chọn vị trí các Đặc khu kinh tế, khi tất cả các địa điểm này đều cách xa các thành phố lớn.
Việt Nam đang đề xuất thành lập ba Đặc khu kinh tế (SEZ), bao gồm Vân Đồn ở Quảng Ninh, Bắc Vân Phong ở Khánh Hòa và Phú Quốc ở Kiên Giang. Nhưng tôi không thể thấy bất kỳ mục tiêu rõ ràng hay tầm nhìn nào đằng sau những lựa chọn này.
Khi chúng ta nói về các nền kinh tế cạnh tranh, chúng ta nghĩ đến cuộc chạy đua giữa các siêu đô thị để thu hút đầu tư nước ngoài và các tổ chức đa quốc gia. Hãy thử nhìn vào Bắc Kinh, Thượng Hải, Tokyo hay Seoul. Xương sống của sự phát triển nằm ngay trong nội dung đô thị hóa đi đôi với công nghiệp hóa. Chỉ những thành phố lớn mới tạo nên một đất nước cạnh tranh.
Rõ ràng điều này không đúng với Việt Nam. Chính phủ dường như nghĩ rằng các thành phố của chúng ta đang quá đông dân và cần phải “giảm bớt”, vì vậy, sự đầu tư nên được dành cho khu vực nông thôn. Cách tiếp cận như vậy đang đi ngược lại xu hướng phát triển.
Trong mắt tôi, Vân Đồn hiện đang là sự lựa chọn tốt nhất trong các lựa chọn. Phú Quốc có thể là một SEZ để thúc đẩy du lịch. Tuy nhiên, đối với Bắc Vân Phong, tôi chưa thấy bất kỳ tiềm năng nào đến từ nơi này.
Với các khoản đầu tư vào, ba khu vực này có thể mang lại một chút giá trị. Tuy nhiên, sẽ rất khó khăn để có những kết quả mang tính đột phá, đóng vai trò then chốt thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam.
Nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho tất cả các quốc gia khác. Cần phải có những mục tiêu và tầm nhìn rõ ràng khi thiết lập các SEZ. Những mục tiêu đó có thể là thúc đẩy tăng trưởng bằng cách thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển cơ sở hạ tầng; hỗ trợ chiến lược kinh tế vĩ mô; có thể là nơi để thử nghiệm các khuôn khổ và chính sách mới và một phương tiện để giảm áp lực lên tăng dân số và thất nghiệp.
Cụ thể hơn, một SEZ cần phải được đặt gần các thị trường lớn. Ví dụ, Thâm Quyến ở tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc là một nơi tốt để thiết lập SEZ, vì vị trí của thành phố làm cho nó trở thành cửa ngõ giữa Hồng Kông và thị trường khổng lồ của Trung Quốc đại lục. Hay Khu công nghiệp Iskandar ở Johor, Malaysia đặc biệt phát triển tốt nhờ sự gần gũi với Singapore và các tuyến thương mại hàng hải quốc tế.
Đối với Việt Nam, nếu chúng ta muốn thu hút các tập đoàn đa quốc gia đến các khu công nghiệp, lựa chọn hàng đầu của tôi sẽ là Khu công nghệ cao Hòa Lạc tại Hà Nội và Khu đô thị mới Thủ Thiêm tại TP.HCM. Hai địa điểm này đáp ứng tất cả các yếu tố cần thiết để thu hút nhà đầu tư, chẳng hạn như gần với nguồn nhân lực lao động có tay nghề cao, đáp ứng tiêu chuẩn của thị trường quốc tế và đã được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Ví dụ, nếu ai đó đầu tư vào Vân Đồn, họ cần hàng ngàn kỹ sư và những công nhân có tay nghề cao khác. Liệu khu vực này có thể đáp ứng nhu cầu đó đủ nhanh không? Sẽ rất khó khăn. Nhưng sẽ dễ dàng nếu đặc khu nằm gần Hà Nội, nơi có rất nhiều công nhân tài năng. Tốt nhất là hãy để Hà Nội và TP.HCM đóng vai trò là động lực thúc đẩy nền kinh tế của Việt Nam.
Một SEZ tốt, theo ý kiến của tôi, nên cung cấp cho các nhà đầu tư sự tự do tối đa để thử nghiệm các khuôn khổ pháp lý khác nhau, không chỉ đơn giản là cung cấp các ưu đãi thuế, đất đai và tài chính. Ví dụ, SEZ ở quận Phố Đông, Thượng Hải là một thành công lớn do các quy định lỏng lẻo. Thay vì yêu cầu các doanh nghiệp đăng ký, họ chỉ phải thông báo về việc mở cửa; thay vì liệt kê các hoạt động kinh doanh hợp pháp, chỉ những hoạt động bất hợp pháp được Nhà nước liệt kê mới bị cấm.
Như vậy, các Đặc khu kinh tế của Việt Nam phải là một phần của chiến lược phát triển toàn diện, điều mà tôi không thể tìm thấy trong dự thảo luật của chính phủ. Đồng thời, người lãnh đạo trong mỗi SEZ cần được tự chủ hơn trong việc ra quyết định để không bỏ lỡ các nhà đầu tư lớn do phải chờ đợi phê duyệt từ các cơ quan cấp cao hơn.
Về chi phí xây dựng ba Đặc khu kinh tế, 44 tỷ đô la, ngân sách nhà nước sẽ chỉ có khả năng hỗ trợ một phần, phần còn lại buộc phải đến từ các nguồn khác. Trong giai đoạn đầu, tôi tin rằng ngân sách nhà nước sẽ cần phải trả cho phát triển cơ sở hạ tầng nhưng một khoản đầu tư lớn như vậy cần phải được phân tích chi phí – lợi ích cẩn thận. Nếu chúng ta đổ hàng triệu đô la vào đó mà không tính toán lợi tức đầu tư, tham nhũng sẽ là điều không thể tránh khỏi.
* Tiến sĩ Huỳnh Thế Du là giảng viên tại Đại học Fulbright Việt Nam, TP.HCM.
Nguồn: e.vnexpress.net